Theo đó, kể từ ngày 1-1-2018, Mỹ sẽ tăng cường giám sát việc khai thác và nhập khẩu đối với các loài thủy hải sản, bao gồm cá hồng, cá mập, cá kiếm, cá ngừ, cá mú, cá nục, cua, tôm, bào ngư, hải sâm, cá tuyết nhập khẩu vào nước này (riêng bào ngư và tôm sẽ được áp dụng sau).
Đây là các loài hải sản ưu tiên của chương trình Giám sát thủy sản nhập khẩu vào Mỹ (SIMP) nhằm chống lại các hoạt động đánh bắt bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU) và gian lận thương mại thủy sản.
Ngày 11-10, Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) phối hợp với Cục Quản lý đại dương và khí quyển quốc gia Mỹ (NOAA) đã tổ chức hội thảo về chương trình Giám sát thủy sản nhập khẩu vào Mỹ tại TP.HCM.
Bà Heather Brandon, chuyên gia của NOAA, cho biết nội dung chủ yếu của SIMP là đưa ra các yêu cầu đối với việc cấp phép, báo cáo và ghi chép số liệu cho việc nhập khẩu một số sản phẩm cá và hải sản nằm trong danh sách ưu tiên và được xác định là dễ bị ảnh hưởng bởi đánh bắt bất hợp pháp IUU hoặc gian lận thương mại đối với hải sản.
Thủ tục hồ sơ về khai thác đánh bắt được nhiều doanh nghiệp xuất khẩu hải sản thắc mắc tại hội nghị về quy định chống khai thác bất hợp pháp và gian lận thương mại của Mỹ đưa ra với hải sản nhập vào nước này.
Theo bà Heather Brandon, có hai loại thông tin truy xuất nguồn gốc mà các doanh nghiệp (DN) cần lưu ý. Đó là thông tin thu hoạch và cập bờ phải được báo cáo qua hệ thống điện tử vào thời điểm nhập khẩu thông qua hệ thống số liệu thương mại quốc tế.
Đồng thời, hồ sơ lưu về chuỗi lưu giữ, các tài liệu theo dõi sản phẩm từ khi đánh bắt, thu hoạch đến thời điểm được đưa vào Mỹ phải được nhà nhập khẩu lưu giữ trong thời hạn hai năm và cơ quan kiểm toán có thể yêu cầu trình xuất.
Đại diện của NOAA cũng cho biết những nội dung thông tin trên DN phải khai báo trước khi thông quan. Trường hợp cung cấp đầy đủ thì sẽ được thông quan, tuy nhiên khi hàng đã thông quan rồi nhưng NOAA nghi ngờ có gian lận thì sẽ tiến hành thanh tra, kiểm tra cụ thể các lô hàng.
Hải sản Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ phải có hồ sơ đảm bảo khai thác hợp pháp, truy xuất được nguồn gốc.
Như vậy, sau EU, đây là thị trường nhập khẩu thủy hải sản thứ hai trên thế giới áp dụng chương trình giám sát thủy hải sản nhập khẩu, nhằm chống lại khai thác bất hợp pháp IUU.
Hằng năm xuất khẩu các mặt hàng thủy sản của Việt Nam vào thị trường này đạt khoảng 1,5 tỉ USD, riêng các mặt hàng hải sản đã là 350-400 triệu USD. Do vậy, với những yêu cầu mới này, nhiều DN đang khá lo lắng.
Đại diện VASEP cho rằng với thời gian quá ngắn các DN Việt Nam khó chuẩn bị kịp theo các quy định của phía Mỹ đưa ra. Cũng như EU, để quản lý thông tin đánh bắt, khai thác từ các tàu thuyền nhỏ nhiều đến các điểm thu mua, vận chuyển, bốc dỡ là cả khối lượng thông tin công việc lớn đối với DN.
Đây thực sự là khó khăn đối với hải sản Việt Nam khi xuất vào Mỹ, vì cần chủ trương, chính sách quản lý của Nhà nước, DN cũng phải đầu tư phần mềm quản lý thông tin, dữ liệu.