Ông Nguyễn Văn Ban (Ba Ban) lớn lên tại vùng biển thuộc tỉnh Bến Tre, nhà nhiều anh em nên cứ quanh quẩn với cái nghèo. Dù vậy, ông vẫn học hết tú tài. Dạy học tại một trường tư thục, lương không đủ trang trải, cái nghèo cứ vây lấy gia đình ông. Hơn 40 năm trước, ông Ban bỏ dạy đi tìm đất sống.
Lên núi tìm kế thoát nghèo
Khi còn ở Bến Tre, ông Ban được cha mẹ cho năm công ruộng nhưng nuôi tới sáu miệng ăn. Dân xứ biển không làm nghề biển, đất đai lại ít nên ông nghèo xơ xác. “Ở đây, chỉ có chờ nghèo đói mà chết. Tương lai con cái chẳng biết về đâu” - ông nghĩ.
|
Ông Ba Ban. Ảnh: VĨNH SƠN |
Nơi ông Ban cắm dùi cảnh rừng âm u, hoang vắng. “Năm 1982, tôi kéo cả gia đình lên đây thì hầu như ngày nào cũng chứng kiến cảnh cây rừng bị tàn phá, nạn săn bắn thú rừng khiến tài nguyên dần cạn kiệt. Tình trạng khai thác gỗ vô tội vạ đã làm cho đồi núi khô cằn, trơ trọi. Cây xanh cổ thụ mất sạch nên những mạch nước thiên nhiên trở nên khan hiếm” - ông Ba Ban nhớ lại.
Gia đình ông Ban bắt tay vào việc khai phá 20 công đất rừng hoang để làm rẫy và trồng các loại cây ăn trái, lấy ngắn nuôi dài. Những mùa đầu, khỉ, heo rừng thường xuyên cắn phá. Những trái bắp khi thu hoạch chỉ còn trơ lại cùi hoặc còn vài ba hạt sót lại, cái đói vẫn đeo đẳng. Sáu tháng mùa nắng khan hiếm nước sinh hoạt, cả ngày đi hứng ở các khe suối xa mang về cho vào khạp để dành uống. Đêm xuống bọn heo rừng lui tới cậy nắp uống cạn hết mấy khạp nước. Sáng ra, cả nhà hoảng hốt nhìn những khạp nước nghiêng ngả và trên mặt đất chỉ còn để lại những vết chân heo. Nhiều lúc khó khăn, cả gia đình chỉ ăn cơm được buổi sáng, buổi chiều thì ăn khoai mì chấm muối cho qua bữa. “Khó khăn thế nhưng vợ chồng tôi vẫn không nản chí, bởi tôi tin chắc mình cố công bám đất thì ngày sau sẽ có cái mà sống” - ông Ban tâm tình.

Nhờ những người như ông Ba Ban mà rừng trên núi Cấm ngày nay xanh biếc một màu. Ảnh: VĨNH SƠN
Biến sỏi đá thành cơm
Ngày này sang tháng nọ, dù trời nắng như đổ lửa hay mưa dầm, cả gia đình vẫn cặm cụi chặt cây tạp, cuốc đất, phá đá san phẳng. Hễ ló ra được mảnh đất nào trống thì tranh thủ đào lỗ trồng cây. Ngày qua ngày rồi miếng rẫy, miếng vườn cũng rộng ra. “Các con tôi đi học một buổi, còn một buổi đi hái su hào thuê cho các vườn lân cận để kiếm tiền xuống núi đong gạo, vợ chồng tôi tập trung phá rừng tạp. Lúc ấy bom đạn chiến tranh sót lại dày đặc. Một ngày nọ đang phá đá san bằng bỗng nghe tiếng nổ kinh hoàng, mảnh bom rơi cạnh chân tôi. Mấy người khẩn hoang gần đó nghĩ gia đình tôi tiêu rồi. Nhưng trời còn thương, người trong nhà tôi chẳng ai sao cả” - ông Ban nhớ lại.
Hơn chục năm trời rời quê, bỏ nghề dạy học, ông Ba Ban không ngày nào không nghĩ chuyện biến sỏi đá thành cơm. Quần áo ông lúc nào cũng ướt đẫm mồ hôi, ông không sợ rừng thiêng nước độc mà chỉ sợ mình chùn bước. Ông bà mình thường nói người thương đất ắt đất sẽ thương người.
“Lá cây mục rụng nhiều làm nguồn dinh dưỡng dồi dào trong đất, trồng cây gì cũng tốt. Những mảnh vườn, luống rau, bắp bắt đầu cho hoa lợi sau hơn chục năm cày cuốc khai hoang. Kết cục, những giọt mồ hôi mà vợ chồng tôi đổ xuống đã không vô ích. Rừng bắt đầu trỗi dậy màu xanh, cây ăn trái ở đồi Thiên Tuế cho thu hoạch. Kể từ đó gia đình thoát dần cảnh đói đến tột cùng của mười năm về trước” - ngồi trong căn biệt thự trên đỉnh đồi Thiên Tuế gió lộng mát, ông Ba Ban hồi tưởng chuyện ngày xưa.
Kiên trì thi gan cùng đá, vật lộn với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, cuối cùng ông Ba Ban cũng gặp may. Năm 1992, trong lúc gia đình trồng chặt chỉ đủ tự cung tự cấp, sống đạm bạc qua ngày, nhà nước có chủ trương trồng và bảo vệ rừng. Thế là không ai có thể xứng đáng hơn “anh hùng lao động xứ rừng” Ba Ban. Cán bộ kiểm lâm chọn ông để giao đất trồng rừng, ban đầu vài hecta, sau đó giao thêm được tổng cộng hơn 11 ha đất rừng. “Để phủ xanh đồi núi, ngành kiểm lâm An Giang cung cấp những loại cây ngắn ngày, đồng thời kêu tôi trồng thêm các loài danh mộc dài ngày để làm rừng phòng hộ. Bên cạnh việc cung cấp giống, kiểm lâm còn hướng dẫn kỹ thuật và trả tiền công trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng cho tôi. Từ ngày có chương trình phát triển rừng đến nay, nạn chặt phá rừng, săn thú giảm đi đáng kể. Núi rừng xanh kín và những người trồng rừng như tôi từng bước đổi thay” - ông Ban cho hay.

Núi Cấm ngày nay có sương mù dày đặc, nơi được xem như Đà Lạt ở miền Tây, phần lớn nhờ những chủ rừng tận tụy như ông Ban. Ảnh: VĨNH SƠN
Giữ rừng như giữ nhà
Có đất, ông làm đủ mọi cách khai thác triệt để tiềm năng từ rừng bên cạnh việc trồng keo lá tràm, bạch đàn… và chăn nuôi động vật hoang dã dưới tán rừng.
Hết nuôi nai, hươu, ông Ban lại lãnh nuôi heo rừng, nhím. Được ngành kiểm lâm tín nhiệm, ông trở thành tổ trưởng đầu tiên của tổ chăn nuôi động vật hoang dã ở Bảy Núi. Rồi những vạt rừng bạt ngàn do vươn cao và bắt đầu trả ơn cho người. Theo nguyên tắc, cứ bốn, năm năm sau khi trồng thì những loài cây ngắn ngày như keo lá tràm, keo tai tượng, bạch đàn… bình quân mỗi công đất tỉa thưa bán mang về cho gia đình ông trên chục triệu đồng/năm. “Số tiền này thời điểm đó có thể mua được khá nhiều vàng” - ông Ban phấn khởi kể.
Thấy ông Ba Ban thuộc mẫu người thiệt bụng và nhiệt huyết trong trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng, lãnh đạo ngành kiểm lâm giao gần hết dự án xây bồn chứa nước chữa cháy cho ông. Kể từ đó ông có việc làm không xuể. Ông kể: Việc xây bồn trên núi không phải dễ. Dân không sành địa hình rừng núi làm lơ mơ là lọt xuống vực chết mất xác. Đồi núi thì hiểm trở, vận chuyển cát đá, xi măng từ chân núi lên đỉnh đã là một kỳ công. Chuyện leo trèo ra mấy mỏm đá hun hút sơ sẩy trượt chân là tiêu mạng.
Sức người có hạn mà ngành kiểm lâm yêu cầu trong bảy năm ông Ba Ban phải xây xong hàng trăm bồn nước trên các ngọn núi như núi Sam, núi Cấm, núi Dài, núi Phú Cường, núi Cô Tô, núi Két, núi Bà Đội… nên ông mướn thêm người làm tiếp. “Tôi nhớ không rõ lắm, hình như mỗi cái bồn xây xong tôi nhận được 1,2 triệu đồng tiền công. Nhờ việc xây bồn chứa nước, thu nhập từ nuôi hươu, nai, heo rừng và hoa lợi từ trồng cây ăn trái mà gia đình tôi khấm khá. Kể từ khi triển khai đề án xây bồn chứa nước chống cháy rừng, đến giờ tôi đã xây trên 200 cái bồn trong điều kiện khắc nghiệt như vậy” - ông Ban bộc bạch.
| Nhắc đến ông Ba Ban, nhiều cán bộ kiểm lâm có thâm niên ở Bảy Núi xuýt xoa: Ở vùng này có được nhiều chủ rừng như ông Ba Ban thì chúng tôi đỡ biết mấy. Ngoài chuyện làm tốt chủ trương trồng và bảo vệ rừng, ông còn bỏ vốn nhà đầu tư nhiều năm liền làm cho rừng xanh tốt. “Từ ngày chú nhận khoán đất rừng, đến nay tại đồi Thiên Tuế không xảy ra vụ cháy hay chặt phá rừng nào” - ông Lê Thành Công, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm Tịnh Biên, nhận xét. |
VĨNH SƠN
Kỳ sau: Thạc sĩ đầu tiên trên núi Cấm
