Vụ án này liên quan đến quyền sở hữu bất động sản trong trường hợp đã chiếm hữu nhà, đất ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn luật định. Phải áp dụng sao cho đúng quy định thì không phải ai cũng có thể thống nhất ngay.
Mỗi bên khai một kiểu
Theo nguyên đơn NTG, căn nhà tại đường Hưng Hóa (phường 6, quận Tân Bình) do cha mẹ ông mua vào năm 1956. Khoảng năm 1966-1967, cha mẹ ông chuyển đi nơi khác mưu sinh, bèn giao nhà cho bà nội ông đứng tên. Năm 1968, vợ chồng ông Đ. về “ở đậu” trong căn nhà trên. Năm 1970, cha của ông G. đưa cho ông Đ. hơn 25 ngàn đồng để xây lại nhà. Khi phát hiện vợ chồng ông Đ. có ý định hợp thức hóa chủ quyền nhà, ông G. đã đại diện gia đình nộp đơn khởi kiện tranh chấp quyền sở hữu nhà.
Theo phía bị đơn, số lần mà căn nhà được sang nhượng qua các đời chủ nhiều hơn trình bày của ông G. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn cho biết mình có về ở cùng bà nội của ông G. vào năm 1968. Tuy nhiên, họ đã đưa cho bà này 100 ngàn đồng để trả tiền cho người chủ cũ liền trước (người này không có trong lời khai của nguyên đơn). Ngoài ra, bị đơn cũng đã bốn lần tu sửa lại căn nhà.
Vụ án được TAND quận Tân Bình xét xử sơ thẩm vào tháng 10-2007. Tòa này công nhận bị đơn được quyền sở hữu nhà theo Điều 247 Bộ luật Dân sự. Bởi lẽ từ năm 1968 đến ngày bị kiện, họ đã chiếm hữu căn nhà ngay tình, liên tục, công khai 31 năm. Tháng 2-2008, TAND TP.HCM xét xử phúc thẩm vụ án và ông G. tiếp tục thua kiện.
Chưa làm rõ nhiều chi tiết
Để chứng minh bị đơn chỉ “ở đậu”, ông G. đã yêu cầu Công an quận Tân Bình photo tờ khai gia đình ghi rõ hai chữ “ở đậu” lập năm 1969. Theo ông G., đây là chữ viết của chính người trưởng ấp thời kỳ đó. Cấp phúc thẩm không hề xem xét tính xác thực của chi tiết này khi xét xử vụ án.
Cũng theo xác nhận của Công an quận Tân Bình, gia đình ông G. có cư ngụ tại căn nhà trên từ năm 1972 trở về trước. Tờ khai gia đình cũ lập năm 1967 và 1972 cho căn nhà này đều do bà nội của ông G. đứng tên làm gia trưởng. Bị đơn cho biết vào năm 1968, mình đã đưa 100 ngàn đồng để bà nội của ông G. trả tiền nhà cho người chủ cũ liền trước (tức gián tiếp mua nhà), vậy tại sao họ lại tiếp tục để cho bà này đứng tên gia trưởng khi lập tờ khai gia đình vào năm 1972?
Hơn nữa, một số biên lai thuế thổ trạch năm 1979, 1980 mà nguyên đơn còn lưu giữ cho thấy chính bà nội của ông G. là người đã thực hiện nghĩa vụ đóng thuế thổ trạch cho căn nhà. Việc gì bà nội của ông G. phải đóng thuế thổ trạch nếu căn nhà đã bán cho người khác?
Ông G. cho biết cha mình từng đưa cho ông Đ. hơn 25 ngàn đồng để sửa chữa nhà vào năm 1970 vì ông Đ. là thợ xây. Chi tiết vật liệu sửa chữa nhà được thể hiện trên mặt trước của một tờ giấy, trong đó có tường, cột, tôn, cây. Mặt sau tờ giấy là bản nháp tính tiền cho các khoản được liệt kê ở mặt trước. Qua chứng cứ này, ông G. muốn chứng minh nếu nhà đã bán thì cha mình chẳng việc gì phải móc túi đưa tiền cho ông Đ. để sửa chữa căn nhà của chính ông Đ. Tuy nhiên, kết luận giám định của Phân viện Khoa học hình sự vào tháng 2-2007 cho thấy chỉ có mặt sau tờ giấy là chữ viết của ông Đ. Vì vậy, cấp phúc thẩm bác bỏ chứng cứ này khi chưa làm rõ tờ giấy được lập vào thời điểm nào, có phải lập ra để thỏa thuận sửa chữa căn nhà trên hay không. Ông Đ. có liên quan gì mà phải tính nháp vào mặt sau tờ giấy?
Báo Pháp Luật TP.HCM từng phản ánh việc nhầm lẫn nghiêm trọng của TAND quận Tân Bình khi vận dụng Điều 247 Bộ luật Dân sự để giải quyết vụ án. Như phân tích của các chuyên gia, Điều 247 chỉ có thể áp dụng để xác lập quyền sở hữu bất động sản theo thời hiệu đối với trường hợp chiếm hữu, được lợi về bất động sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 30 năm. Trong khi đó, việc chiếm hữu nhà của bị đơn trong vụ án này là “có căn cứ pháp luật” chứ không phải là “không có căn cứ pháp luật”.
Khép lại một vụ án khi còn tồn tại quá nhiều mắc mứu khiến việc xét xử trở nên hời hợt, thiếu thuyết phục.
THỤY CHÂU