Công ty Trần Phong trình bày: Vào tháng 9-2011, ông X. có thỏa thuận miệng về việc mua bán vật liệu xây dựng để xây dựng căn nhà tại phường Linh Đông, quận Thủ Đức. Hai bên chỉ ký với nhau một hợp đồng thi công ngày 3-9-2011. Tiếp đó, công ty lập bản “số lượng hoàn thành công trình” hằng tháng để ông X. ký tên xác nhận. Tổng số tiền vật tư đến ngày hoàn thành công trình hơn 700 triệu đồng. Vì ông X. không trả tiền nên công ty khởi kiện yêu cầu tòa giải quyết.
Trong khi đó, ông X. thừa nhận mình có xây dựng căn nhà đúng thời điểm nêu trên. Tuy nhiên, ông không mua vật liệu xây dựng của Công ty Trần Phong mà mua của nhiều cửa hàng khác nhau. Các hóa đơn bán hàng ông không còn lưu giữ vì đã cho hết phía Công ty Trần Phong, do ông và cá nhân người đại diện theo pháp luật của Công ty Trần Phong là anh em kết nghĩa. Ông chỉ ký tên vào các bản hoàn công tháng để giúp công ty hợp thức hóa một số đơn hàng. Ông được hưởng 10% trên giá trị các đơn hàng đã ký.
Xử sơ thẩm hồi tháng 12-2015, TAND quận Thủ Đức nhận định ngoài năm bản “số lượng hoàn thành công trình” có chữ ký của ông X., nguyên đơn không xuất trình được chứng cứ chứng minh ông X. có thỏa thuận mua vật liệu xây dựng của nguyên đơn và còn nợ tiền. Biên bản “thi công công trình” không có công chứng của cơ quan có thẩm quyền và không được ông X. thừa nhận. Ông X. cho rằng đã ký trong tình trạng bị lừa dối. Từ đó, tòa tuyên bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
Công ty kháng cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND TP.HCM đánh giá các chứng cứ mà nguyên đơn xuất trình hoàn toàn đủ cơ sở để chứng minh ông X. đã mua vật liệu xây dựng để xây nhà. Lời khai một phía của ông X. là vô lý và thiếu căn cứ.
HĐXX phúc thẩm đã quyết định sửa án sơ thẩm, buộc ông X. phải trả cho công ty hơn 700 triệu đồng.