Sau khi thu thập thêm chứng cứ, tòa tuyên hủy án sơ thẩm vụ tranh chấp đất

(PLO)- HĐXX cho rằng cấp sơ thẩm chưa thu thập đủ tài liệu, chứng cứ để giải quyết toàn diện vụ án; từ đó chấp nhận toàn bộ lập luận của luật sư của bị đơn, tuyên hủy án sơ thẩm.

0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

Ngày 26-7, TAND tỉnh Bến Tre mở lại phiên tòa xét xử phúc thẩm, tuyên chấp nhận kháng cáo của bị đơn, hủy bản án sơ thẩm vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị Oanh Em, ông Phạm Văn Hăn và bị đơn là bà Nguyễn Thị Bạch Yến, ông Võ Văn Rỡ; giao hồ sơ cho TAND huyện Bình Đại xét xử lại vụ án theo đúng quy định pháp luật.

Đất công, cấp cho nguyên đơn là trái luật

HĐXX nhận định qua đo đạc thực tế phần đất tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn có diện tích 3.019 m2, diện tích đất tranh chấp này phía nguyên đơn đã được cấp chứng nhận QSDĐ; tuy nhiên bị đơn là người đang sử dụng phần đất tranh chấp này.

tranh-chap-dat (2).JPG
Bị đơn Võ Văn Rỡ và Nguyễn Thị Bạch Yến sau phiên tòa phúc thẩm. Ảnh: ĐÔNG HÀ

Về nguồn gốc đất và quá trình biến động các thửa đất, theo HĐXX cấp phúc thẩm, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có căn cứ xác định các phần đất tranh chấp có nguồn gốc từ cha mẹ của các bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết, Nguyễn Thị Lâm, Nguyễn Thị Bạch Yến tặng cho các bà.

Từ năm 1995, khi có chủ trương lập hồ sơ địa chính, bà Lâm, Tuyết đã đăng ký kê khai đất và được UBND huyện Bình Đại cấp chứng nhận QSDĐ.

Năm 2006, UBND xã Đại Hòa Lộc đo vẽ lại bản đồ địa chính, trong đó các thửa đất của bà Lâm, Tuyết đã bao gồm phần diện tích đất kênh cặp đường Huyện lộ 40 (HL40).

Ngày 27-3-2008, bà Lâm và bà Tuyết chuyển nhượng các thửa đất này cho ông Hăn, và bà Oanh Em. Sau đó ông Hăn bà Oanh Em được cấp chứng nhận QSDĐ trong phần đất bao gồm cả phần đất kênh cặp HL40.

Hơn nữa, căn cứ vào biên bản việc xác định ranh giới phần đất ao tranh chấp ngày 24-3-2008, sau khi tiến hành xác định ranh giới thửa đất giữa 3 hộ thì các bà Yến, Lâm, Tuyết đã thống nhất phần đất tính từ mép HL40 đi sâu vào hướng Nam 20 m và dài từ phần đất bà Yến đến phần đất bà Lâm do UBND xã Đại Hòa Lộc quản lý; phần còn lại từ 20 m vào trong do các hộ dân quản lý.

Như vậy có căn cứ xác định tại thời điểm lập biên bản ngày 24-3-2008, phần đất phía trước cách HL40 của bà Lâm, bà Tuyết nay là phần đất tranh chấp được các bên thống nhất thuộc quyền quản lý của UBND xã. Đến ngày 27-3-2008 thì bà Lâm, bà Tuyết chuyển nhượng cho bà Oanh Em, ông Hăn.

Tại Điều 7 của các hợp đồng chuyển nhượng có ghi: “Phần đất cặp HL40 tính từ mép HL40 vào sâu 20m theo hướng Nam thuộc UBND xã quản lý (kênh và bờ kênh)”.

Do đó, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (UBND xã Đại Hòa Lộc và UBND huyện Bình Đại) căn cứ vào nội dung này cho rằng việc chuyển nhượng QSDĐ giữa bà Lâm, bà Tuyết với bà Oanh Em, ông Hăn là sai quy định và có yêu cầu độc lập hủy một phần giấy chứng nhận QSDĐ của ông Hăn bà Oanh Em đối với phần đất thuộc quyền quản lý của UBND xã Đại Hòa Lộc là có căn cứ để xem xét.

tranh-chap-dat.jpg
Luật sư Nguyễn Thị Hồng Thắm, bảo vệ cho bị đơn, phát biểu tại phiên tòa phúc thẩm. Ảnh: ĐÔNG HÀ

Cấp sơ thẩm đánh giá chứng cứ chưa toàn diện

HĐXX cấp phúc thẩm nhận định: Cấp sơ thẩm nhận định các phần đất nêu trên thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Hăn, bà Oanh Em; không chấp nhận yêu cầu độc lập của UBND xã Đại Hòa Lộc và UBND huyện Bình Đại là đánh giá chứng cứ chưa toàn diện. Đồng thời theo biên bản xác minh ngày 9-7-2024, UBND xã Đại Hòa Lộc cung cấp thông tin hiện trạng con kênh cặp HL40 vẫn được các hộ dân sử dụng dẫn nước vào các vuông nuôi thủy sản.

Phía nguyên đơn căn cứ vào giấy chứng nhận QSDĐ cho rằng phần đất của nguyên đơn đã bị bị đơn lấn chiếm nên yêu cầu trả lại, chấm dứt hành vi cản trở QSDĐ và đòi bồi thường thiệt hại.

Trong khi đó ông Rỡ, bà Yến đang sử dụng đúng phần đất được mẹ bà Yến cho nên không đồng ý với yêu cầu của phía nguyên đơn. Đồng thời bị đơn yêu cầu tòa tuyên hủy các hợp đồng chuyển nhượng, hủy các giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp cho bà Tuyết, bà Lâm, ông Hăn, bà Oanh Em.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cũng có yêu cầu độc lập hủy 1 phần giấy chứng nhận QSDĐ của bà Oanh Em, ông Hăn; buộc bà Yến, ông Rỡ trả lại một phần diện tích 2.034 m2 do xã quản lý.

Việc công nhận hiệu lực hợp đồng giữa bà Tuyết, bà Lâm với ông Hăn , bà Oanh Em đối với phần đất này có một phần con kênh nội đồng làm ảnh hưởng đến lợi ích công cộng và lợi ích hợp pháp của Nhà nước.

Do đó khi giải quyết tranh chấp cần xác định rõ phần đất thuộc quyền quản lý của Nhà nước từ mép đường HL40 vào sâu 20 m trên các thửa của ông Hăn, bà Oanh Em là phần đất nào; từ đó mới có căn cứ xác định được phần đất đang tranh chấp giữa nguyên đơn, bị đơn và UBND xã Đại Hòa Lộc là phần đất nào, diện tích là bao nhiêu...

Việc cấp sơ thẩm không thu thập chứng cứ bằng phương pháp đo đạc, định vị đối với phần đất nêu trên để làm cơ sở giải quyết vụ án là thiếu sót, chưa giải quyết được bản chất của vụ án.

tranh-chap-dat (1).JPG
Phía bị đơn và luật sư sau phiên tòa phúc thẩm. Ảnh: ĐÔNG HÀ

Ngoài ra nguyên đơn còn yêu cầu bị đơn là ông Rỡ, bà Yến chấm dứt hành vi cản trở QSDĐ vì cho rằng phần đất tranh chấp này thuộc quyền sử dụng của nguyên đơn. Hơn nữa vị trí đất đang tranh chấp nằm ở giáp đường công cộng dẫn đến nguyên đơn không có lối đi thuận tiện vào phần đất còn lại.

HĐXX cấp phúc thẩm xét thấy đây là nguyên nhân phát sinh tranh chấp giữa hai bên không là hành vi cản trở QSDĐ; đồng thời nguyên đơn đã có yêu cầu bị đơn đốn chặt cây trồng, trả lại phần đất tranh chấp. Vậy nên, nếu yêu cầu được chấp nhận thì việc tuyên bị đơn chấm dứt hành vi cản trở QSDĐ là không cần thiết; do đó tòa cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết đối với cả hai quan hệ nói trên là có sự trùng lặp.

Theo HĐXX cấp phúc thẩm, cấp sơ thẩm chưa thu thập đủ tài liệu, chứng cứ để giải quyết toàn diện vụ án là thiếu sót; cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên cần thiết phải hủy án sơ thẩm để xét xử lại vụ án.

Kháng cáo vì "Tòa chưa xem xét giấy chia đất cho con"

Xử sơ thẩm vào tháng 2-2024, TAND huyện Bình Đại tuyên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người liên quan (UBND xã Đại Hòa Lộc và UBND huyện Bình Đại).

Bị đơn kháng cáo đề nghị hủy án sơ thẩm, với lý do: Tòa chưa xem xét chứng cứ là Giấy xác nhận về việc xác định chia đất đai cho con ruột ngày 4-12-2012 và biên bản về việc chia đất cho con.

Theo đó, thì phần diện tích đất mà bà Lời chia cho ba người con gồm hai thửa đất liền kề nhau, trong đó:

- Thửa 01: Bà Lời vẫn sử dụng, sau này cho lại bà Yến, bà Yến sử dụng liên tục đến nay.

- Thửa 02: Thửa Nhà nước trả lại, diện tích khoảng 6 mẫu, có bờ ranh từ lộ vào 20 m. Bà Lời chia đều Thửa 02 cho ba người con, mỗi người được khoảng 2 mẫu. Tại biên bản lấy lời khai ngày 31-7-2013, bà Lời đã tiếp tục khẳng định nội dung này.

Phần đất mà hai người chị của bà Yến và hai nguyên đơn mua bán, chuyển nhượng không liên quan đến Thửa 01.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm