Trong đó, đại biểu Lê Thị Nga đã thẳng thắn cảnh báo nếu lạm dụng ODA thì sẽ để lại gánh nặng nợ nần cho tương lai bởi cách sử dụng dàn trải, kém hiệu quả như hiện nay khiến cho ODA vay rẻ nhưng trả lại đắt.
Vi phạm lớn toàn do... nước ngoài phát hiện
Theo bà Nga, qua hơn 20 năm, Việt Nam thu hút gần 78 tỉ USD Mỹ, bình quân 3 tỉ đô/năm. Chính phủ đã rất nỗ lực và kết quả nguồn vốn này đã đóng góp tích cực vào phát triển kết kinh tế- xã hội. Nhiều chương trình, dự án ODA đạt chất lượng tốt.
Tuy nhiên, thực tế cũng đã phát sinh nhiều bất cập, thậm chí vi phạm và tội phạm. Thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong nhiều dự án ODA đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công trình, làm mất uy tín của Việt Nam đối với Nhà tài trợ.
Lấy ví dụ cho việc sử dụng ODA lãng phí gấy thất thoát, bà Nga nêu hàng loạt các vụ tiêu cực điển hình như vụ PMU 18, Vụ Huỳnh Ngọc Sỹ, Vụ nghi vấn tiêu cực tại dự án DANIDA (Đan Mạch) năm 2012; Vụ JTC đường sắt gần đây.
“Đáng lưu ý, tuy có nhiều cơ chế kiểm tra, giám sát, nhưng những vụ vi phạm lớn lại chỉ được phát hiện do phía nước ngoài. Chúng tôi rất hoan nghênh việc xử lý khẩn trương của Bộ trưởng Giao thông vận tải, Bộ Công an, VKSTC về vụ JTC đường sắt vừa qua. Đây cũng là minh chứng cho quan điểm, thái độ nghiêm túc của Nhà nước Việt Nam trong xử lý những sai phạm về ODA”, bà Nga nhấn mạnh.
Hai điểm yếu cơ bản
Trước thực tế này, ĐB Nga đặt vấn đề nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng ODA là hết sức cấp bách, nhất là trong tình hình nợ công và tham nhũng hiện nay.
Theo phân tích của bà Nga về hành lang pháp lý, ODA chủ yếu được điều chỉnh bởi Nghị định 38 CP/2013, quyết định của Thủ tướng, hướng dẫn của các bộ, ngành, địa phương và quy định của Nhà tài trợ. Các quy định này phức tạp, phân tán, hiệu lực pháp lý thấp, lại vừa có khả năng thực hiện tùy nghi.
“Việc đảm bảo công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong Nghị định 38 mới chỉ dừng ở nguyên tắc mang tính tuyên ngôn, chưa cụ thể hóa hết vào quy trình ODA, dẫn đến chưa ngăn chặn tình trạng xin - cho, "cò dự án", tiêu cực, tham nhũng”, bà Nga lưu ý và cho rằng pháp lý về ODA bộc lộ hai điểm yếu rất cơ bản là: Quốc hội - người chịu trách nhiệm cao nhất về nợ công, và Người dân - chủ thể phải đóng thuế và trả nợ cuối cùng gần như đứng ngoài quy trình ODA.
“Tôi đề nghị Quốc hội Ban hành Luật quản lý, sử dụng ODA, theo đó chú trọng quy định chặt chẽ tiêu chí chấp nhận vốn ODA; công khai, minh bạch toàn bộ số vốn, công khai các dự án và quy trình phân bổ; buộc phản biện độc lập trước khi quyết định; quy định về trách nhiệm của QH, về quyền của người dân, Mặt trận, báo chí, hiệp hội chuyên ngành trong quá trình quyết định và thực thi ODA”- bà Nga nói.
Về giám sát của Quốc hội, bà ĐB Lê Thị Nga nêu thực tế 20 năm qua, mặc dù đã xảy ra không ít vụ gây chấn động dư luận, nhưng QH chưa một lần giám sát tối cao về ODA. Với tư cách là các cơ quan chuyên môn của Quốc hội phụ trách về kinh tế, ngân sách nhưng Ủy ban kinh tế và Ủy ban tài chính ngân sách cũng chưa lần nào giám sát chuyên đề này. Các năm 1999, 2003, Ủy ban đối ngoại có hai lần giám sát; năm 2006 khi xảy ra vụ PMU 18 Ủy ban đối ngoại một lần nữa báo cáo lại các kiến nghị giám sát của lần trước nhằm khắc phục những sai phạm trong ODA. Đáng tiếc những kiến nghị rất sát thực này đến nay vẫn chưa được tiếp thu đầy đủ.
“Đây là một nguyên nhân không nhỏ góp phần làm cho những bất cập, sai phạm trong dùng ODA chậm được khắc phục, góp phần đẩy nợ công lên sát ngưỡng mất an toàn”, ba Nga nhấn mạnh.
Từ đó bà Nga đề nghị QH tiến hành giám sát ODA, chỉ ra những khiếm khuyết trong chính sách, những nhóm lợi ích liên quan đến ở cả trong nước và nước tài trợ; phân tích những mặt lợi và bất lợi của ODA, từ đó đề xuất chiến lược sử dụng có chọn lọc theo lộ trình giảm dần, tiến đến chấm dứt ODA. Bởi theo bà Nga bất cứ quốc gia nào, nếu phụ thuộc lâu dài vào ODA thì đó là thất bại của chiến lược phát triển!
Coi chừng 'sập bẫy ODA'
Về các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA, bà Nga cho rằng đây là vấn đề rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả tiền vay, nhưng Nghị định 38 đã quy định quá rộng, ưu tiên hầu hết các lĩnh vực kinh tế- xã hội, và còn có quy định "quét" rất tùy nghi tại khoản 9: "Một số lĩnh vực khác".
“Việc cào bằng, thiếu trọng tâm, trọng điểm trong sử dụng ODA đã dẫn đến phân bổ dàn trải, không kích thích được nội lực, tạo tâm lý trông chờ, ỷ lại, không nỗ lực tìm kiếm các nguồn vốn khác, đồng thời không tập trung cao được để đầu tư vào lĩnh vực mang tính đầu tàu, dẫn đường cho các lĩnh vực khác”- bà Nga nhận xét.
Vì vậy theo bà Nga cần nhận thức đúng về ODA và không coi thường những khuyến cáo của các chuyên gia. Cụ thể sau khi chúng ta thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp thì ưu đãi giảm đi, điều kiện vay và trả nợ khắc nghiệt hơn. “Nếu lạm dụng ODA thì sẽ để lại gánh nặng nợ nần cho tương lai. Nhưng điều này đã chưa được nhận thức đúng. Bộ trưởng Bùi Quang Vinh, người giúp Chính làm đầu mối về ODA đã rất bức xúc: "Tôi dám chắc có một tỉ lệ không nhỏ cán bộ và người dân, đặc biệt là lãnh đạo địa phương còn hiểu một cách rất sơ đẳng rằng: ODA là cho không, vay được càng nhiều càng tốt, bất chấp khả năng trả nợ". Đây là thực tế rất đáng lo ngại” bà Nga lo lắng.
Theo phân tích của bà Nga năng lực quản trị khu vực công của ta hạn chế, chưa kiểm soát được thất thoát, lãng phí, tham nhũng nên đã góp phần làm cho một số dự án mặc dù vay giá rẻ, nhưng đã trở nên vô cùng đắt đỏ. Cùng với xu hướng: thích dùng ODA, lại gắn liền với lợi ích nhóm, tư duy nhiệm kì, bệnh thành tích ở một số nơi đã và đang khiến công trình ODA xuất hiện rất nhiều nhưng chất lượng, hiệu quả thấp, suất đầu tư quá cao, cao hơn rất nhiều so với các nước.
Bà Nga cũng cho biết, nhiều nghiên cứu quốc tế về ODA đã chỉ ba điểm cơ bản khiến nước tiếp nhận có khả năng chịu bất lợi. Đó là nước tài trợ tạo ra và duy trì một nhu cầu viện trợ giả tạo; đòi hỏi những điều kiện đảm bảo lợi nhuận của các công ty của nước tài trợ tham gia ODA; xuất khẩu ô nhiễm môi trường sang nước tiếp nhận. “Cũng có nhà kinh tế ví ODA như là "Sát thủ kinh tế", là "Bẫy ODA"...”- bà Nga nói.
Từ những phân tích này, ĐB Lê Thị Nga đưa ra ba kinh nghiệm quốc tế về ODA. Thứ nhất là tiền vay được quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả, sử dụng có chọn lựa và đặt kế hoạch chấm dứt nhận ODA trong một tương lai không xa.
“Tóm lại, chúng tôi có 3 kiến nghị: QH tiến hành giám sát tối cao và ban hành Luật về ODA; Kiểm soát chặt chẽ hiệu quả sử dụng, chống thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong ODA; Sử dụng ODA có chọn lọc, hạn chế và có lộ trình chấm dứt ODA trong tương lai gần”, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga kết lại.