Từ không phạm tội, sau gần 10 năm, thành có tội

Để đảm bảo an toàn đường dây 500 kV đoạn từ Km 334 đến Km 344, năm 2000 Bộ GTVT có văn bản chỉ đạo Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 6 phải có phương án nổ mìn phá đá. Công ty Cổ phần Xây dựng công trình khai thác đá 621 (đơn vị trực thuộc Tổng Công ty 6) đã ký hợp đồng để Công ty TNHH Thanh Nam thi công với phương án “nổ mìn đặc biệt”.

Bị khởi tố vì nổ mìn “hao” 4 tỉ đồng

Tuy nhiên, quá trình thi công, Công ty Thanh Nam không thực hiện theo phương án “nổ mìn đặc biệt” đã được phê duyệt mà lại theo phương án “nổ om” do kỹ sư Bùi Hải Nhân (phó ban chỉ huy, thuộc Công ty 621) sáng chế.

Theo hồ sơ vụ án, năm 2002 việc nổ mìn kết thúc. Khi làm thủ tục đề nghị Ban quản lý dự án đường Hồ Chí Minh thanh toán, kỹ sư Nhân đã tiêu hủy 130 hộ chiếu nổ mìn (ghi nhận cho mỗi lần nổ mìn) để làm lại thành 365 hộ chiếu. Sau đó ban quản lý dự án đã chấp nhận thanh toán 80% khối lượng phê duyệt được đề nghị với số tiền hơn 14 tỉ đồng.

Tuy nhiên, năm 2005 Viện Kinh tế xây dựng (Bộ Xây dựng) đã giám định công trình và xác định hạng mục nổ mìn phá đá chỉ tốn hơn 10 tỉ đồng. Cho rằng các bị cáo gây thiệt hại hơn 4 tỉ đồng nên trong hai năm 2004-2005, kỹ sư Bùi Hải Nhân và bốn người khác bị khởi tố về tội tham ô tài sản; tám bị can khác tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Cũng trong năm 2005, kỹ sư Bùi Hải Nhân và hai người thuộc Công ty Thanh Nam bị CQĐT Bộ Công an chuyển sang khởi tố tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Riêng ông Nhân bị bắt tạm giam hai năm.

Các bị cáo trong phiên xử sơ thẩm lần hai, tháng 9-2018. (Ảnh do nhân vật cung cấp)

Hủy án vì chưa đủ căn cứ kết tội

Tháng 4-2009 (tức năm năm sau), TAND tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm lần đầu, khẳng định việc Nhân có hành vi lập 365 hộ chiếu nổ mìn để phù hợp với hồ sơ thanh toán, tuy nhiên không có cơ sở để khẳng định Nhân chiếm đoạt số tiền của Nhà nước với vai trò đồng phạm giúp sức. Từ đó tòa này đã tuyên kỹ sư Bùi Hải Nhân và hai người thuộc Công ty Thanh Nam không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; bị cáo Lê Quang Tứ (phó giám đốc Công ty 621) cùng với bảy bị cáo còn lại bị tuyên tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng nhưng được miễn hình phạt. Sau đó các bị cáo kháng cáo kêu oan.

Tháng 7-2009, xử phúc thẩm, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng đã tuyên hủy bản án sơ thẩm trên vì chưa đủ căn cứ kết tội các bị cáo.

Theo tòa phúc thẩm, phương án “nổ om” (các cơ quan tiến hành tố tụng kết luận là phương án thông thường) của kỹ sư Nhân đã rút ngắn thời gian thi công hơn một năm, công trình an toàn tuyệt đối. Các bị cáo nổ mìn phá đá nhưng giám định lại sử dụng đơn giá đào đất. Giám định này chỉ có giá trị tham khảo, bởi số liệu chỉ là tạm tính, cán bộ giám định không phải là giám định viên. Mặt khác, ban quản lý dự án mới chỉ thanh toán 80% khối lượng đã được Bộ GTVT duyệt. Hợp đồng nổ mìn phá đá giữa các bên chưa được kiểm toán, chưa quyết toán và chưa thanh lý. Cấp sơ thẩm kết tội các bị cáo tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng mà lại không làm rõ số tiền bị thất thoát về đâu, có bị chiếm đoạt hay không…

Dùng tài liệu tham khảo để kết tội

Sau khi bị hủy án, cho rằng các bị cáo gây thiệt hại hơn 8,3 tỉ đồng nên VKSND Tối cao chuyển qua truy tố kỹ sư Bùi Hải Nhân, Lê Quang Tứ cùng với hai người thuộc Công ty Thanh Nam tội lợi dụng chức vụ và quyền hạn trong khi thi hành công vụ, các bị cáo còn lại thì vẫn giữ nguyên tội danh thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Tháng 9-2018 (tức sau chín năm kể từ ngày xét xử phúc thẩm, 14 năm kể từ ngày khởi tố bị can), TAND tỉnh Kon Tum đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm lần hai. Tuy nhiên, tại phiên tòa đại diện VKSND bất ngờ thay đổi quan điểm, chỉ truy tố các bị cáo gây thiệt hại hơn 3,6 tỉ đồng. Tất cả bị cáo đồng loạt kêu oan. Riêng phía bị hại là ban quản lý dự án lại khẳng định đơn vị này không bị thiệt hại vì số tiền hơn 14 tỉ đồng mới chỉ là tạm thanh toán chứ chưa được quyết toán.

TAND tỉnh Kon Tum nhận định hai văn bản của Viện Kinh tế xây dựng đã xác định tổng giá trị công trình nổ mìn phá đá là hơn 10 tỉ đồng, không xác định được chính xác khối lượng thi công thực tế, đây là tài liệu mang tính chất tham khảo. Tuy nhiên, tòa vẫn kết tội các bị cáo gây thiệt hại hơn 3,6 tỉ đồng (bằng cách tòa tự lấy hơn 14 tỉ đồng được phê duyệt trừ đi hơn 10 tỉ đồng).

Từ đó TAND tỉnh Kon Tum đã tuyên phạt kỹ sư Bùi Hải Nhân 10 năm tù, các bị cáo còn lại từ 12 tháng tù treo đến tám năm tù về các tội danh trên.

Các bị cáo đã kháng cáo lên TAND Cấp cao tại Đà Nẵng và gửi đơn kêu oan nhiều nơi.

Các bị cáo không phạm tội mới đúng

ông Nguyễn Văn Phước (nguyên Chánh án TAND tỉnh Khánh Hòa), luật sư Nguyễn Hồng Hà (Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa) và luật sư Lê Văn Hoan (Đoàn Luật sư TP.HCM) đều khẳng định để kết tội các bị cáo ở hai tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ và tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng buộc phải chứng minh được thiệt hại xảy ra. Kỹ sư Bùi Hải Nhân không tiến hành theo phương án “nổ mìn đặc biệt” đã được duyệt và các bị cáo nổ mìn theo phương án do bị cáo Nhân tự sáng tạo (nổ om), kết quả là đã rút ngắn thời gian thi công hơn một năm, công trình hoàn thành an toàn tuyệt đối. Hành vi này không thể coi là tội phạm mà có thể được coi là người có bản lĩnh sáng tạo về chuyên môn trong quá trình thi công.

Các cơ quan tố tụng vẫn chưa làm rõ các bị cáo chiếm đoạt số tiền của Nhà nước là bao nhiêu, không xác định được chính xác giá trị khối lượng được thi công thực tế, các bị cáo nổ mìn phá đá nhưng giám định lại dùng phương án đào đất. Người giám định không phải là giám định viên nên kết luận giám định không có giá trị pháp lý. TAND tỉnh Kon Tum chỉ dựa vào văn bản của Viện Kinh tế xây dựng mang tính chất tham khảo (giám định này từng bị tòa phúc thẩm bác bỏ vì vi phạm pháp lệnh về giám định tư pháp năm 2004) là vi phạm tố tụng nghiêm trọng.

Từ những phân tích như trên, các chuyên gia cho rằng TAND tỉnh Kon Tum đã sai lầm trong việc đánh giá, sử dụng chứng cứ buộc tội. Bởi theo Điều 87 BLTTHS 2015 thì chỉ những chứng cứ được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục mới có giá trị pháp lý và được dùng làm căn cứ giải quyết vụ án. Ngoài ra, công trình cũng mới chỉ tạm thanh toán chứ các bên chưa thanh lý hợp đồng thì dựa vào đâu để nói các bị cáo chiếm đoạt tiền của Nhà nước hơn 3,6 tỉ đồng? Lẽ ra TAND tỉnh Kon Tum phải tuyên các bị cáo không phạm tội mới đúng.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm