Ngày mai (19-9), TAND TP Cần Thơ mở lại phiên tòa phúc thẩm vụ “Đương sự không có quyền chuyển nhượng nhưng tòa vẫn công nhận” mà PLO đã nhiều lần phản ánh. Trước đó, phiên tòa đã hai lần bị hoãn vì nhiều lý do.
Mở phiên tòa lần này, thẩm phán Nguyễn Quyến sẽ thay thế thẩm phán Lê Thị Minh Trang làm chủ tọa.
Vào ngày 17-7, PLO đã có thông tin về sự xuất hiện tình tiết mới trong vụ án.
Theo đó, trong quá trình Chi cục THADS huyện Phong Điền, TP Cần Thơ làm thủ tục giao tài sản trúng đấu giá cho ông Trương Hoàng Nghi (bị đơn) thì người khác khởi kiện liên quan đến tài sản này. Tranh chấp đã được giải quyết bằng bản án phúc thẩm ngày 13-7-2022 của TAND TP Cần Thơ. Sau đó, Chi cục THADS huyện Phong Điền tiếp tục giao tài sản trúng đấu giá cho ông Nghi.
Tuy nhiên, vào ngày 6-6-2024, Ủy ban Thẩm phán TAND Cấp cao tại TP.HCM đã ra quyết định giám đốc thẩm liên quan đến vụ tranh chấp tài sản trúng đấu giá nêu trên. Tòa Cấp cao đã hủy cả bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm để xét xử sơ thẩm lại.
Quyết định giám đốc thẩm nêu rõ: Ông Nghi là người thứ ba ngay tình thông qua bán đấu giá tài sản thì không bị tuyên bố vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều 138 BLDS năm 2005. Bản án phúc thẩm quyết định tiếp tục giao tài sản đấu giá cho ông Nghi là đúng.
Vào ngày 26-3-2024, VKSND Tối cao đã có công văn giải đáp vướng mắc trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự. Trong đó, có giải đáp về tình huống tương tự như vụ án mà TAND TP Cần Thơ đang giải quyết.
Cụ thể, VKSND tỉnh Bắc Giang hỏi: Sau khi ký hợp đồng đặt cọc, bên đặt cọc đã trả đủ tiền mua đất nhưng chưa làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp này hợp đồng đặt cọc có bị vô hiệu không, có công nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất không?
VKSND Tối cao đã trả lời như sau: Sau khi ký hợp đồng đặt cọc, bên đặt cọc đã trả đủ tiền mua đất nhưng chưa lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền.
Theo khoản 1 Điều 502 BLDS năm 2015, điểm a Khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực.
Theo Điều 188 Luật Đất đai thì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa đăng ký tại Cơ quan đăng ký đất đai (chưa đăng ký vào Sổ địa chính) thì chưa có hiệu lực. Do vậy, trong trường hợp trên, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất không được công nhận.
Số tiền mua đất bên đặt cọc đã giao cho bên nhận đặt cọc được xác định là số tiền đặt cọc. Để xác định hợp đồng đặt cọc có bị vô hiệu hay không phải căn cứ vào nội dung sự việc tranh chấp, nếu hợp đồng đặt cọc vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo Điều 117 BLDS và/hoặc có đối tượng không thể thực hiện được theo Điều 408 BLDS thì vô hiệu.
PLO sẽ thông tin kết quả của phiên tòa ngày mai…
Nội dung vụ án
Ngày 21-1-2020, ông Nghi mua trúng đấu giá hơn 10.000 m2 đất nông nghiệp tại xã Giai Xuân, huyện Phong Điền.
Ngày 21-1-2021, vợ chồng ông Nghi ký hợp đồng đặt cọc (HĐĐC) để chuyển nhượng toàn bộ phần đất này cho các bà Hà Ngọc Diễm, Nguyễn Thị Mỹ Phượng. Phía ông Nghi đã nhận cọc 2,550 tỉ đồng. Hai bên thỏa thuận sẽ công chứng hợp đồng chuyển nhượng trong vòng một năm kể từ ngày HĐĐC được công chứng.
Ngày 12-9-2023, ông Nghi được cấp một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho thửa đất có diện tích 5.596 m2 (trong số hơn 10.000 m2 ông Nghi trúng đấu giá); bà Diễm, bà Phượng đang giữ giấy chứng nhận này. Còn một thửa (phần diện tích còn lại) đang cập nhật biến động để cấp giấy chứng nhận cho ông Nghi.
Do những bất đồng nên quá một năm mà việc chuyển nhượng chưa xong. Do đó, căn cứ thỏa thuận trong HĐĐC, vợ chồng ông Nghi đề nghị hủy HĐĐC, trả lại tiền và bồi thường (nếu có).
Bà Diễm, bà Phượng đi kiện, yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, được quyền sang tên thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận từ vợ chồng ông Nghi, đứng tên trên phần đất đang được cập nhật biến động...
Xử sơ thẩm ngày 2-4, TAND huyện Phong Điền tuyên vợ chồng ông Nghi phải chuyển nhượng cho bà Diễm, bà Phượng toàn bộ phần đất, với nhận định các bên không thực hiện đúng thời hạn thể hiện trong HĐĐC là do nguyên nhân khách quan...