Chiều 6-12, UBND xã Tân Thành, tỉnh Lâm Đồng đã tổ chức buổi lễ trang trọng đánh dấu hải đăng Kê Gà chính thức được công nhận là Di tích Lịch sử và Kiến trúc cấp tỉnh.
Ông Nguyễn Minh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng, đã trao bảng xếp hạng cho đại diện chính quyền và nhân dân địa phương, mở ra một chương mới cho ngọn hải đăng huyền thoại này.
Tuy nhiên, câu chuyện về Kê Gà không chỉ dừng lại ở cấp tỉnh. Gần 30 năm trước, từ 1997-1998, tỉnh Bình Thuận đã từng nỗ lực lập hồ sơ đề nghị xếp hạng Kê Gà là Di tích Lịch sử và Kiến trúc quốc gia. Tuy nhiên vì những vướng mắc về thủ tục và sự đồng thuận giữa địa phương và đơn vị chủ quản (Chi nhánh đảm bảo an toàn hàng hải phía Nam), quá trình này đã bị gián đoạn suốt gần ba thập kỷ.
Ông Võ Thành Huy, Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL tỉnh Lâm Đồng, khẳng định sau cột mốc cấp tỉnh, Sở sẽ tiếp tục hoàn thiện hồ sơ khoa học để đưa Kê Gà lên một tầm vóc xứng đáng hơn: Di tích cấp quốc gia.
Kỳ quan giữa đại dương
Khởi công vào tháng 2-1897 dưới sự thiết kế và chỉ huy của kỹ sư người Pháp Chnavat, hải đăng Kê Gà chính thức hoạt động vào năm 1899.
Điều làm nên sự vĩ đại của ngọn tháp là toàn bộ vật liệu, từ những phiến đá granit kiên cố, đều được vận chuyển kỳ công từ Cảng Marseille, Pháp, vượt trùng dương xa xôi đến vùng đất này.
Tháp đèn có hình bát giác uy nghi, mỗi cạnh 3 m, vươn cao 41 m. Bên trong lòng tháp là cầu thang xoắn ốc bằng thép gồm 184 bậc. Với đỉnh đèn đạt độ cao 65 m so với mặt biển, Kê Gà kiêu hãnh đứng vững, được mệnh danh là hải đăng cao nhất Việt Nam.
Suốt hơn một thế kỷ, ngọn tháp đã trở thành cột mốc bất diệt, điểm tựa tinh thần không thể thay thế cho những con tàu đi về trên vùng biển phía Nam.
Nhưng đằng sau vẻ đẹp kiến trúc tráng lệ ấy là một câu chuyện bi tráng không thể nào quên, đã có đến 86 người tù khổ sai đã ngã xuống, vĩnh viễn nằm lại dưới chân ngọn tháp, hiện có miếu thờ dưới chân tháp.
Mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của họ đã thấm sâu vào từng phiến đá granit, khiến Kê Gà không chỉ là công trình kiến trúc mà còn là một chứng tích lịch sử bi hùng, hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu di tích cấp quốc gia.
Những khác biệt của ngọn hải đăng huyền thoại
Ánh sáng của Kê Gà mang một quy ước đặc trưng, không lẫn vào đâu được: Ba chớp ngắn và một chớp dài, với chu kỳ 20 giây. Dù công nghệ đã thay đổi từ đèn dây vonfram của Pháp sang đèn năng lượng mặt trời hiện đại của Mỹ, nhưng khả năng chiếu sáng tối đa 22 hải lý vẫn luôn được duy trì, kiên định soi đường dẫn lối.
Theo Đại Nam nhất thống chí, vào thời nhà Nguyễn, địa danh này được gọi là Khe Gà do ngày xưa ở đây có nhiều gà rừng sinh sống. Còn người dân địa phương giải thích sở dĩ có tên gọi này do trước đây đất liền và đảo chưa tách rời như ngày nay mà có thể qua lại dễ dàng.
Bằng chứng là hiện trên đảo Kê Gà còn có dấu tích của một chuồng ngựa dùng cho các viên quan người Pháp giám sát công trình xây dựng hải đăng đi ngựa qua lại làng chài người Việt gần đó. Khi người Pháp đến đây, có lẽ để dễ phát âm nên họ gọi Kê Gà (Kéga), và khi vẽ bản đồ hành chính thì ghi là Kéga theo cách phát âm của người Pháp, về sau cứ quen gọi là Kê Gà.
Sự khác biệt lớn nhất của Kê Gà nằm ở chính vùng biển bao quanh nó. Hàng năm, tại nhiều thời điểm, thiên nhiên ban tặng một hiện tượng kỳ thú: Nước biển bất ngờ rút cạn, để lộ ra một con đường cát trắng nối liền đất liền với đảo.
Vào ngày 8-8-2025 vừa qua, con đường độc đáo này đã xuất hiện, cho phép du khách có thể đi bộ, thậm chí đi xe máy thẳng ra đảo, chiêm ngưỡng ngọn hải đăng. Chính những điều hiếm có, độc nhất vô nhị này đã tạo nên sự khác biệt của Hải đăng Kê Gà, nơi ngọn đèn biển hơn 120 năm chưa bao giờ tắt.
Phát biểu tại buổi lễ, Bà Mai Thị Ngọc Ảnh, Chủ tịch UBND xã Tân Thành, không giấu được xúc động: "Hải đăng Kê Gà không chỉ là một công trình kiến trúc mà là một báu vật thiêng liêng, là linh hồn của người dân vùng biển này. Mỗi bậc đá, mỗi ánh đèn đều chất chứa lịch sử, niềm tự hào.
Việc xếp hạng cấp tỉnh hôm nay là sự ghi nhận xứng đáng cho những giá trị không thể đong đếm. Chúng tôi tin tưởng và kỳ vọng rằng Kê Gà sẽ sớm được vinh danh là di tích quốc gia, không chỉ để bảo tồn mà còn để lan tỏa một thông điệp nhân văn và sự tri ân đối với những người đã làm nên tuyệt tác này".