Tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lai Châu ngày 19-11 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu tỉnh tập trung xây dựng quy hoạch, khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản, trong đó có đất hiếm.
Khởi động khai thác đất hiếm
Việt Nam (VN) được đánh giá có trữ lượng đất hiếm đứng thứ hai thế giới, sau Trung Quốc nhưng đến nay các mỏ nguyên liệu đất hiếm của VN hầu như vẫn còn nguyên.
Theo TS Vũ Thị Hồng Nhung, ĐH RMIT VN, đất hiếm đóng vai trò quan trọng trong sản xuất chất bán dẫn, một ngành công nghiệp cốt lõi toàn cầu. Nó cũng thiết yếu trong nhiều lĩnh vực khác như thông tin, viễn thông, y tế, năng lượng, giao thông vận tải và quân sự. Đất hiếm là thành phần không thể thiếu trong sản xuất thiết bị công nghệ cao như điện thoại thông minh, máy tính xách tay và thiết bị quốc phòng.
Thực tế, từ hơn một thập niên trước, vào năm 2012, Nhật Bản và VN đã có sự hợp tác thông qua việc thành lập trung tâm nghiên cứu chung đặt tại Hà Nội nhằm khai thác đất hiếm tại VN.
Các nhà nghiên cứu Nhật Bản và VN đã đạt nhiều thành công khi tách được các kim loại từ khoáng sản đất hiếm nhưng tất cả chỉ mới ở phạm vi phòng thí nghiệm mà chưa triển khai thương mại, dù các bên đặt mục tiêu xây dựng được phương pháp tối ưu để sản xuất sản phẩm chất lượng cao từ đất hiếm. Nguyên nhân là vào thời điểm đó, nguồn cung đất hiếm của Trung Quốc tăng mạnh khiến giá cả rẻ nên việc bắt tay vào khai thác chưa thể tối ưu.
Theo ước tính của Cục Khảo sát địa chất Mỹ, trữ lượng đất hiếm của VN chiếm vị trí quan trọng trên thế giới. Với khoảng 22 triệu tấn, chiếm 19% tổng trữ lượng toàn cầu, VN đứng thứ hai chỉ sau Trung Quốc - quốc gia dẫn đầu với 44 triệu tấn.
Khi so sánh với các quốc gia khác như Brazil có 21 triệu tấn, Nga 12 triệu tấn, Ấn Độ 6,9 triệu tấn… thì rõ ràng VN có nguồn tài nguyên đất hiếm đáng kể.
Đến năm 2014, Bộ TN&MT đã cấp phép cho khai thác đất hiếm tại mỏ Lai Châu và Yên Bái nhưng chưa đi vào hoạt động. Nguyên nhân chính do các doanh nghiệp không tìm ra quy trình sản xuất tối ưu, vì quá trình chiết xuất và tinh chế đất hiếm được xem là khá phức tạp.
Tuy nhiên, hiện nay mọi việc đã thay đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Đơn cử, Tỉnh ủy Lai Châu vừa cho biết tỉnh này đã quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư, nhà đầu tư dự án khai thác, chế biến mỏ đất hiếm Bắc Nậm Xe với tổng công suất thiết kế khai thác 400.000-600.000 tấn/năm quặng đất hiếm nguyên khai.
Công ty Cổ phần Đất hiếm VN cũng cho hay đơn vị và đối tác Blackstone Minerals của Úc (đơn vị đàm phán đấu thầu các mỏ đất hiếm với VN) đang lên kế hoạch cho việc đấu giá khai thác mỏ Đông Pao ở Lai Châu rộng hơn 130 ha, lớn nhất VN, để cung cấp các sản phẩm theo tiêu chuẩn cho các công ty toàn cầu. Đặc biệt, một số quốc gia như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc… cũng mong muốn hợp tác với VN để khai thác đất hiếm.
Còn nhiều việc phải làm
Nhiều chuyên gia kinh tế khẳng định một khi khai thác thành công nguồn đất hiếm, VN có tiềm năng tạo doanh thu 2 tỉ USD mỗi năm. Đó là chưa kể VN có thể nhận được hàng loạt lợi ích khác từ hợp tác phát triển công nghệ cho đến tạo vị thế quan trọng với các đối tác lớn trên thế giới. Bởi lẽ hiện nay một số nước đóng vai trò cung cấp chính nguồn đất hiếm cho toàn cầu đã thu hẹp nguồn cung.
TS Lê Hồng Hiệp, nhà nghiên cứu cấp cao Viện ISEAS-Yusof Ishak (Singapore), cho biết ngoài doanh thu trước mắt, ngành khai thác đất hiếm có thể mang lại cho đất nước những lợi ích kinh tế tiềm năng khác như giúp VN hội nhập sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu với các sản phẩm công nghệ cao. Tuy nhiên, rào cản của VN hiện nay trong việc khai thác và tinh chế đất hiếm chính là thu hút các nhà đầu tư có năng lực cũng như tiếp thu công nghệ hiệu quả, thân thiện với môi trường.
TS Vũ Thị Hồng Nhung nhận định hiện nay Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và các quốc gia phương Tây đang tìm kiếm giải pháp để hạn chế sự phụ thuộc vào nguồn cung đất hiếm từ một số nước. Điều này mở ra cơ hội cho VN, với trữ lượng đất hiếm lớn, để trở thành một phần quan trọng của chuỗi cung ứng đất hiếm toàn cầu.
Vị chuyên gia này cũng cho rằng kết hợp với lợi thế trữ lượng đất hiếm lớn và nhu cầu toàn cầu ngày càng cao, VN đang tạo ra một môi trường thuận lợi để thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt trong các ngành công nghiệp sử dụng đất hiếm như bán dẫn, điện tử và công nghệ cao.
Tuy vậy, để tận dụng nguồn đất hiếm của mình, VN có thể tìm kiếm hợp tác quốc tế và đầu tư nước ngoài để tăng cường kỹ thuật, quản lý và mở rộng thị trường xuất khẩu. Tập trung vào nghiên cứu và phát triển (R&D) cũng như xây dựng chuỗi cung ứng địa phương từ khai thác đến sản xuất sẽ giảm phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài và tăng giá trị gia tăng cho nền kinh tế.
Bên cạnh đó, VN cũng cần xây dựng chính sách và quy định phù hợp để đảm bảo khai thác bền vững, cân bằng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường. Đầu tư vào đào tạo và phát triển nhân lực trong lĩnh vực này là thiết yếu để tạo ra lực lượng lao động có kỹ năng và chuyên môn cao.
Hiện tại VN chưa làm chủ được công nghệ chế biến đất hiếm. Đây là lĩnh vực các nước giữ độc quyền, không chuyển giao công nghệ.
Trong khi đó, việc đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ chế biến sâu là rất cần thiết. Công nghệ chế biến sâu giúp tăng giá trị gia tăng của quặng đất hiếm, từ đó tạo ra sản phẩm có giá trị cao hơn, thay vì chỉ xuất khẩu nguyên liệu thô, giúp mở ra các cơ hội xuất khẩu mới. Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp và nhà khoa học là quan trọng để phát triển các công nghệ này.
Bên cạnh đó, VN cần khuyến khích phát triển các ứng dụng công nghiệp từ đất hiếm như nam châm vĩnh cửu, động cơ xe điện. Điều này giúp VN không chỉ là nhà sản xuất nguyên liệu mà còn là nhà sản xuất sản phẩm cuối cùng có giá trị cao.
TS VŨ THỊ HỒNG NHUNG, ĐH RMIT VN