Theo đó, ngày 1-10-2018, ông Nguyễn Đức H. có đến phòng làm hồ sơ và được cấp giấy biên nhận. Tại bàn nhận hồ sơ, ông H. có trình bày trước đây bị xử lý không cho xuất cảnh do bỏ trốn khi có lệnh bắt của Công an quận 3 về hành vi cố ý gây thương tích. Cán bộ phòng đã thông báo hồ sơ của ông H. được tiếp nhận, cấp giấy biên nhận và đề nghị ông H. nộp lệ phí. Cán bộ cũng nêu rõ nếu qua xử lý hồ sơ, ông H. có tên trên hệ thống chưa được xuất cảnh thì phòng sẽ có thông báo bằng văn bản và mời ông đến nhận lại lệ phí đã nộp. Sau đó, ông H. ra về và không đóng lệ phí đề nghị cấp hộ chiếu. Do cán bộ phòng không liên lạc được với ông H. về việc đóng lệ phí nên phòng đã hủy hồ sơ.
Sau đó, ngày 26-1-2018, ông H. tiếp tục đến phòng làm hồ sơ và được cấp giấy biên nhận mới. Ngày 3-1-2019, ông H. đã được cấp hộ chiếu.
Theo công văn trên thì trong năm 2018, ông H. có đến phòng hai lần (không phải ba lần). Việc ông H. không được cấp hộ chiếu vào lần đầu tiên là do ông H. không đóng lệ phí nên hồ sơ bị hủy, không phải do phòng từ chối tiếp nhận hồ sơ. Việc ông H. liên hệ với Công an quận 3 để làm thủ tục giải tỏa lệnh cấm xuất cảnh là tự ông H. làm, không phải do phòng yêu cầu.