Theo thông tin ban đầu, Huỳnh Trường Anh (21 tuổi, thị trấn Mái Dầm, huyện Châu Thành, Hậu Giang) vừa bị bắt để điều tra về hành vi cướp giật tài sản. Trước đó, tối 20-5, Anh vào một cửa hàng, kêu nhân viên lấy cho xem hai chiếc ĐTDĐ hiệu OPPO (trị giá khoảng 10 triệu đồng). Sau đó Anh nói là muốn mua thẻ cào, lợi dụng lúc nhân viên vào quầy lấy thẻ cào, Anh cầm theo hai chiếc điện thoại, nhanh chóng ra lấy xe máy đã chuẩn bị sẵn rồi tẩu thoát.
Có ý kiến cho rằng tài sản thuộc quyền sở hữu là bao gồm những tài sản thể hiện dưới dạng vật, tiền, giấy tờ có giá trị tài sản. Ở vụ việc này, chiếc điện thoại mô hình không có giá trị về tài sản. Do vật mà Anh chiếm đoạt không phải là tài sản nên hành vi của Anh không phạm phải những tội thuộc nhóm tội xâm phạm sở hữu.
Tuy nhiên, ý kiến này đã gặp nhiều phản đối.
Những chiếc điện thoại mô hình để trưng bày.
Theo các chuyên gia, hành vi của Anh đã thỏa mãn dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội cướp giật tài sản, đó là lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản hoặc có thể tự mình tạo ra những sơ hở để thực hiện hành vi công khai chiếm đoạt tài sản rồi nhanh chóng tẩu thoát.
Luật sư Bùi Viết Nông, Đoàn Luật sư TP.HCM, phân tích: Trong trường hợp sai lầm về đối tượng thì người phạm tội vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội có đối tượng mà họ cố ý định thực hiện hoặc tội có đối tượng bị xâm hại thực tế nếu họ có lỗi vô ý.
Về mặt ý thức chủ quan của Anh thì Anh cho rằng điện thoại mô hình là điện thoại thật và cố ý chiếm đoạt chiếc điện thoại đang trong sự quản lý của nhân viên cửa hàng.
Để cấu thành tội, hành vi của Anh phải có hai dấu hiệu để phân biệt với hành vi chiếm đoạt của tội phạm khác, đó là dấu hiệu công khai và nhanh chóng.
Thứ nhất, dấu hiệu công khai vừa chỉ tính chất khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội. Hành vi được coi là công khai nếu hình thức thực hiện cho phép chủ tài sản có khả năng biết hành vi này xảy ra.
Thứ hai, dấu hiệu nhanh chóng là thủ đoạn lợi dụng sơ hở của chủ tài sản (sơ hở này có thể là sẵn có hay do người phạm tội tạo ra), nhanh chóng tiếp cận, chiếm đoạt tài sản và lẩn tránh. Thông thường hình thức nhanh chóng chiếm đoạt có thể là giật lấy tài sản, giành lấy tài sản và nhanh chóng tẩu thoát.
Trong vụ án này, Anh đã lợi dụng lúc nhân viên vào quầy lấy thẻ cào, Anh cầm theo hai chiếc điện thoại, nhanh chóng ra lấy xe máy đã chuẩn bị sẵn tẩu thoát. Với thủ đoạn này, nhân viên cửa hàng không kịp có điều kiện phản ứng ngăn cản việc chiếm đoạt tài sản.
Theo nội dung vụ việc, có thể khẳng định lỗi của Anh là lỗi cố ý trực tiếp, thể hiện qua việc Anh biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang thuộc quyền sở hữu của người khác nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình.
Theo mục 2 Phần II Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25-12-2001 (hướng dẫn áp dụng các quy định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS 1999) thì: “Trong trường hợp có đầy đủ căn cứ chứng minh rằng người có hành vi xâm phạm sở hữu có ý định xâm phạm đến tài sản có giá trị cụ thể theo ý thức chủ quan của họ, thì lấy giá trị tài sản đó để xem xét việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi xâm phạm”.
Dựa vào hướng dẫn trên thì giá trị của tài sản chiếm đoạt (hai chiếc điện thoại mô hình) chính là giá trị của chiếc điện thoại thật. Tuy nhiên, cấu thành cơ bản của tội cướp giật tài sản không đòi hỏi phải có định lượng là giá trị bằng tiền như một số tội danh khác như trộm cắp hay lừa đảo...