Theo tục lệ cổ truyền của người Việt, cứ đến 23 tháng Chạp âm lịch, Táo quân - vị thần trông coi bếp núc cho mọi nhà lại cưỡi cá chép bay về trời để báo lại mọi việc xảy ra ở hạ giới trong năm qua. Cùng với việc chuẩn bị mâm cơm, bàn thờ ông Công, ông Táo cũng được các gia đình lau dọn sạch sẽ, tượng ông Táo được thay mới để cầu một năm may mắn, đủ đầy. Trước nhu cầu tín ngưỡng của các gia đình, ở nhiều địa phương, nghề đúc tượng ông Táo theo đó mà hình thành.
Mẻ tượng cuối cùng đón Tết
Nằm kề bên phố cổ Bao Vinh, đến làng Địa Linh (xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, Thừa Thiên-Huế) vào những ngày cận Tết, từ xa tiếng gõ lọc cọc phát ra từ những chiếc khuôn đúc, mùi khen khét của đất sét nung càng rõ rệt hơn.
Trong căn nhà bà Võ Thị Hòa, hàng vạn ông tượng được phân loại và bỏ vào một góc riêng biệt. Trên nền nhà chi chít bùn đất, vừa gặp chúng tôi, bà Hòa niềm nở: “Cuối năm gia đình đang chạy nước rút, cả nhà tôi ai cũng làm, làm từ ngày đến khuya mới đủ bán ra thị trường”.
Tính luôn mẻ tượng cuối cùng này, riêng gia đình bà Hòa đã cho ra lò gần 10 vạn bức tượng ông Công, ông Táo. Để làm nên những bức tượng ông Công, ông Táo đẹp mắt đặt lên gian bếp mỗi gia đình vào dịp 23 tháng Chạp, người làm nghề đúc tượng phải chuẩn bị trước nửa năm và công việc chọn đất sét là hết sức quan trọng.
“Đất sét phải có màu vàng và ít tạp chất thì tượng lên mới đẹp được. Muốn có đất đẹp thì trước khi vào vụ làm tượng, gia đình phải tìm mua và đãi sạch các tạp chất. Vì làm tượng để thờ nên nguồn đất sạch luôn được gia đình tôi quan tâm đầu tiên” - bà Hòa nói.
1.000 bức tượng trong lò nung tại gia đình bà Hòa. Ảnh: NGUYỄN DO
Hàng vạn ông Công, ông Táo từ các lò nung ở làng Địa Linh được đưa ra thị trường. Ảnh: NGUYỄN DO
Khuôn gỗ để tạo hình tượng cũng là một phần không thể thiếu. Để có những bức tượng đúng chuẩn, người làng Địa Linh chọn nguyên liệu làm khuôn từ loại gỗ lim. Cứ hai năm, khuôn lại được người thợ thay một lần. Khi cho đất vào khuôn đúc phải ép thật chặt để tượng không bị méo. Khi rời khuôn đúc, các bức tượng được phơi khô khoảng một ngày nắng trước khi cho vào lò nung.
“Nếu tượng còn ướt mà cho vào lò nung thì sẽ bị bể, vỡ. Đặc biệt ở Huế mùa này mưa nhiều, không có nắng thì gia đình tôi thường sử dụng quạt để làm khô. Làm khô tượng bằng quạt mất thời gian hơn” - bà Hòa cho hay.
Đang xếp những bức tượng vào lò nung, ông Võ Văn Đức, thợ đúc tượng lâu năm tại làng Địa Linh, chia sẻ: “Xếp tượng vào lò nung rất quan trọng, hơn 1.000 tượng phải sắp xếp thành từng hàng, nhiều lớp trên dưới xen kẽ, giữa các lối cần có khoảng cách để lửa cháy đều, tránh việc nổ hoặc vỡ nát trong ba ngày nung. Nếu tượng bị lệch thì phải chêm miếng đất vào dưới tượng để tránh bị sụp”.
Sau khi nung, những bức tượng ông Táo được người dân vẽ bằng màu rồi rắc bột kim tuyến để trông bắt mắt hơn. Công đoạn này phải đến gần 23 tháng Chạp mới bắt đầu được thực hiện để tượng luôn được mới và phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
Vừa trong lò nung, anh Đức nói: “Nghề làm ông Táo ở làng Địa Linh khi xưa rất nổi tiếng, hầu như nhà nào cũng làm. Nhưng giờ chỉ còn ba hộ giữ lửa nghề. Không biết những năm sau còn ai nhớ đến làng nghề này nữa không!”.
Gian nan giữ nghề
Trước đây, từng có thời gian nghề đúc tượng ông Công, ông Táo là công việc mang lại thu nhập ổn định cho nhiều hộ gia đình ở làng Địa Linh. Thế nhưng vì nhiều lý do mà đến nay không còn nhiều người gắn bó với nghề. Nhiều người tâm huyết muốn giữ lại nghề lại gặp nhiều khó khăn bởi công việc tuy vất vả nhưng thu nhập rất thấp.
Trước kia cả làng sống được nhờ vào nghề đúc tượng ông Công, ông Táo thì hiện nay tại làng Địa Linh chỉ còn sót lại gia đình ba anh em Võ Văn Đức, Võ Văn Nam và Võ Văn Hay còn giữ công việc này. Vì nghề chỉ làm được vào những tháng cận Tết nên những tháng còn lại trong năm, các gia đình phải làm đủ thứ nghề khác để kiếm sống. Anh Võ Văn Nam cho hay: “Có thời điểm tôi làm phụ hồ để kiếm thu nhập trang trải cho gia đình. Chứ làm tượng ông Táo thu nhập thấp mà chỉ đủ trang trải cho mấy ngày Tết”.
Mỗi ngày gia đình anh Nam làm ra được khoảng 300 tượng ông Công, ông Táo, mỗi tượng bán ra giá từ 500 đến 2.500 đồng. Tính ra với mỗi tượng ông Công, ông Táo gia đình anh chỉ thu được từ 200 đến 1.000 đồng. Nói như anh Nam thì công việc này như “lấy công làm lãi”.
“Anh em tôi nối nghiệp ông cha, muốn giữ nghề truyền thống của địa phương và cha ông nhưng còn gặp nhiều khó khăn. Nếu bám trụ thì khó sống được bằng nghề. Hết đời chúng tôi không biết nghề đúc tượng làng Địa Linh từng nổi tiếng một thời còn không” - anh Nam giọng buồn buồn nói.
Chị Nguyễn Thị Tươi, tiểu thương tại chợ An Cựu đến mua tượng ông Táo, cho biết: “Các hộ dân làm ông Công, ông Táo ở Huế ngày càng ít, có lẽ do thiếu nhân lực và thu nhập thấp. Để chuẩn bị cho ngày tiễn ông Công, ông Táo về trời, các tiểu thương phải đến đặt hàng sớm chứ không sẽ hết hàng”.
Nguy cơ mai một làng nghề Nói đến làng Địa Linh là nói đến nghề nung đất, trong số này có nghề sản xuất gạch và nghề đúc tượng ông Công, ông Táo. Ở Huế trước đây có hai làng, làng Địa Linh và làng Sình làm nghề đúc tượng ông Công, ông Táo. Tuy nhiên, sau này làng Sình đã chuyển sang làm áo ông Công, ông Táo, chỉ còn làng Địa Linh là nơi cuối cùng còn giữ được nghề độc đáo này đến bây giờ. Nhưng hiện nay số hộ làm tượng ông Công, ông Táo rất ít và đứng trước nguy cơ mai một. Ông TRƯƠNG VĂN LỢI, trưởng thôn Địa Linh |