Sáng 11-12, với đa số đại biểu có mặt tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá cho công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Tăng mức hưởng BHYT cho nhiều đối tượng
Theo nội dung Nghị quyết, nhiều quyền lợi về chăm sóc sức khoẻ của người dân được mở rộng.
Cụ thể, người tham gia bảo hiểm y tế là đối tượng thuộc hộ gia đình cận nghèo; người cao tuổi từ đủ 75 tuổi trở lên đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội được áp dụng mức hưởng 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế.
Tăng tỉ lệ mức hưởng trong phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế là đối tượng chính sách xã hội, người yếu thế, người có thu nhập thấp và một số đối tượng cần ưu tiên khác.
Quỹ bảo hiểm y tế cũng chi cho khám sàng lọc, chẩn đoán và điều trị sớm một số bệnh.
Thực hiện chính sách miễn viện phí ở mức cơ bản trong phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế theo lộ trình phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, khả năng cân đối của Quỹ bảo hiểm y tế và việc tăng mức đóng bảo hiểm y tế.
Tổ chức thực hiện thí điểm đa dạng hóa các gói bảo hiểm y tế, đa dạng các loại hình cung ứng dịch vụ bảo hiểm y tế và thực hiện bảo hiểm y tế bổ sung do các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp theo nhu cầu của người dân khi đủ điều kiện thực hiện.
Bác sĩ y khoa, cổ truyền, răng hàm mặt... được xếp lương ngay từ bậc 2
Về chế độ, chính sách tiền lương, phụ cấp cho nhân viên y tế, Nghị quyết nêu rõ bác sĩ y khoa, bác sĩ y học cổ truyền, bác sĩ răng hàm mặt, bác sĩ y học dự phòng, dược sĩ được xếp lương từ bậc 2 khi được tuyển dụng vào chức danh nghề nghiệp tương ứng cho đến khi có quy định mới về tiền lương.
Người thường xuyên và trực tiếp làm chuyên môn y tế thuộc lĩnh vực tâm thần, pháp y, pháp y tâm thần, hồi sức cấp cứu, giải phẫu bệnh được hưởng phụ cấp ưu đãi nghề ở mức 100%.
Người thường xuyên và trực tiếp làm chuyên môn y tế tại trạm y tế cấp xã, cơ sở y tế dự phòng được hưởng phụ cấp ưu đãi nghề 100% đối với khu vực vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo; tối thiểu 70% với khu vực còn lại.
Về bảo đảm an toàn cho nhân viên y tế, theo Nghị quyết, người nào có hành vi xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng hoặc xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhân viên y tế thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ 1-1-2026, riêng chính sách miễn viện phí ở mức cơ bản trong phạm vi được hưởng của người tham gia bảo hiểm y tế có hiệu lực thi hành từ 1-1-2030.
Kể từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực thi hành, bác sĩ y khoa, bác sĩ y học cổ truyền, bác sĩ răng hàm mặt, bác sĩ y học dự phòng, dược sĩ đã được tuyển dụng và đang hưởng mức lương bậc 1 thì được xếp lương bậc 2.
Hơn 88.000 tỉ đồng đầu tư cho chương trình chăm sóc sức khỏe và phát triển dân số
Cũng trong sáng nay, với đa số đại biểu có mặt tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035.
Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035. Ảnh: QH
Một số mục tiêu cụ thể đáng chú ý như: đến năm 2030 có 90% xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế; năm 2035 đạt 95%.
Từ năm 2030, 100% người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời. Đến năm 2030, 100% Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) các tỉnh, thành phố đủ năng lực xét nghiệm tác nhân, kháng nguyên, kháng thể các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chất lượng nước sạch, vệ sinh trường học theo quy định của Bộ Y tế.
Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm theo hướng dẫn của Bộ Y tế đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035.
Tỉ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%. Tỷ suất sinh thô đến năm 2030 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2030.
Tỉ số giới tính khi sinh đến năm 2030 giảm xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống và đến năm 2035 giảm xuống dưới 107 bé trai/100 bé gái sinh ra sống.
Tỉ lệ cặp nam, nữ được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90% vào năm 2030 và 95% vào năm 2035; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và 90% vào năm 2035; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và đạt 95% vào năm 2035.
Số lượng người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.
Tổng vốn thực hiện chương trình giai đoạn 2026-2030 là: 88.635 tỉ đồng. Căn cứ kết quả thực hiện của Chương trình giai đoạn 2026-2030, Chính phủ trình Quốc hội quyết định nguồn lực thực hiện Chương trình giai đoạn 2031-2035.