Năm 1972 Lâm Quý tốt nghiệp khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, công tác tại Thông tấn xã Việt Nam. 1973 làm phóng viên chiến trường khu V. 1978 trở ra công tác ở miền Bắc, phóng viên thường trú ở các tỉnh Vĩnh Phú, Yên Bái. Năm 2004 nghỉ hưu.
Tác phẩm chính đã xuất bản: Kó Lau Slam (truyện tình thơ, 1991); Tình thơ Cao Lan (thơ, 1997); Chàng út của ông Trời (truyện thơ, 1995); Cô gái nghèo và chàng Tiên Lợn (sưu tầm, 2001); Xịnh ca Cao Lan (dịch thơ dân gian cổ, song ngữ, 2003); Văn hóa Cao Lan (nghiên cứu sưu tầm, 2004); Cái Lều nương (tập truyện ngắn, 2006); Hoa đỏ lửa (tập thơ, 2007).
Lâm Quý được nhận nhiều giải thưởng Văn học của tỉnh Vĩnh Phú, Yên Bái và báo Văn nghệ.
Lâm Quý là nhà thơ duy nhất của dân tộc Cao Lan với hơn 18 vạn nhân khẩu. Có nhà thơ nhận xét: “Tinh hoa văn hoá dân tộc Cao Lan đã dồn đến nhà thơ Lâm Quý”.
Trong “Nhà văn Việt Nam hiện đại” nhà thơ Lâm Quý tâm sự : “Tôi là người đầu tiên của dân tộc tôi tốt nghiệp khoa Ngữ văn ĐHTH Hà Nội (1972). Ra trường vào miền Nam tham gia chống Mỹ, là phóng viên chiến trường miền Trung Trung Bộ và Tây Nguyên vừa làm báo, vừa làm thơ viết văn. Năm 1978 trở về miền Bắc công tác tại quê hương đất Tổ 12 năm sau đó lên công tác tại Yên Bái làm phóng viên TTXVN. Đời tư: Có một bà vợ cùng dân tộc, hiền lành, 4 đứa con, đời sống khó khăn. Tính tình ngay thẳng thật thà, cương trực. Am hiểu vốn văn hoá, ngôn ngữ, chữ viết của dân tộc mình. Là một thầy cúng được cấp sắc nhiều uy tín với dân tộc Cao Lan. Ngôn ngữ thơ văn độc đáo, mang đậm màu sắc dân tộc. Cha là một trí thức dân tộc Cao Lan, mẹ là người giỏi hát dân ca. Tôi tiếp thu được vốn văn hoá cổ truyền của dân tộc mình”.
Lâm Quý vào HNV năm 1993. Bài thơ đầu của anh đăng trên Tuần báo Văn nghệ (HNV) từ tháng 9 năm 1969 khi anh còn học năm thứ nhất đại học. Bài thơ viết về Bác Hồ khá xúc động, tình cảm chân thành, đậm màu sắc, cách ví von của người Cao Lan, “Kẻ Hồ ơi/con không thể tin được/ Một ngày buồn cả nước /Nghe tin đài phát thanh bảo rằng: / Ké đã ra đi/ Buổi sáng tinh sương ấy/ Gà xuống chuồng không buồn ăn/ con chim cu không buồn gáy/ Đàn ong biếng đi làm/ Cành chuối đầu hè không tươi…”.
Thơ Lâm Quý xét về đề tài, thể loại dẫu khác nhau, nhưng đều mang âm hưởng dân ca, truyện cổ, truyện thơ của dân tộc Cao Lan. Gần 40 năm làm thơ, nhưng số lượng bài được anh in thành tập khá khiêm tốn. “Hát về nguồn” thơ in chung hai tác giả - Hội VHNT Vĩnh Phú 1981, “Núi mọc trong mặt gương”. Thơ in chung NXB VHDT năm 1988; và hai tập thơ riêng “Điều có thật trong dân ca” NXB VHDT 1988 và “Tình thơ Cao Lan” NXB HNV 1997.
Tập thơ thứ hai, Qúy tặng tôi và cho biết dư luận bạn đọc ở Yên Bái, Phú Thọ dành cho “Tình thơ Cao Lan” khá tốt. Tập thơ mỏng chỉ có 30 bài, chọn trong khoảng thời gian từ 1969 với bài “Kẻ Hồ ơi ”. Bài cuối cùng của tập thơ: Thêu cả bốn mùa, viết năm 1995, khá ấn tượng, tứ lạ lời thơ đẹp: “Cô gái người Mông/ Thêu cả bốn mùa vào gấu váy/ Vạt đằng trước thêu mùa nước chảy/ Xoa tròn đầu hòn đá dưới thung/ Vạt đằng sau dùng dằng đi hội/ Chàng trai mải nhìn vấp ngã sưng môi/ Vạt bên phải thêu mùa nếp mới/ Tháng chín chín cả lưng đồi/ Vạt bên trái thêu mùa đào hé nụ/ Nở dài theo dải địu con thơ”.
Nhận xét ban đầu của tôi là tập thơ mỏng quá, in ấn không đẹp, lại không có giá bán. Những bài thơ khá, đứng vào tập cung cách này hơi “tủi” Quý ạ. Nhấp chén rượu, Quý thanh minh: Tiền đâu để in dày dặn, bán ai mua mà đề giá. Thương vợ con phải đấy con lợn thịt 50kg và chỗ ông Ngô Văn Phú giúp phần nào về giấy phép. Thơ in ra tặng bạn bè là chính, ai thông cảm thì giúp đỡ tý chút.
Một lần Lâm Quý đi trại sáng tác Nha Trang. Trước biển khi mọi người xuống tắm thì anh đứng … ngắm và ứng khẩu bài Xuống núi: “ở trên núi nhìn toàn thấy cây/ Xuống đồng bằng nhìn toàn thấy người/ Người và cây đều là hai thứ/ Nuôi nấng tôi khôn lớn thành người/ ở trên núi nhìn toàn thấy suối/ Xuống đồng bằng toàn là dòng sông/ Sông và suối hoà hồn tôi trong nước/ Đưa tôi về biển cả mênh mông/ ở trên núi nhìn toàn thấy váy/ xuống biển bờ nhìn toàn thấy đùi/ Đùi và váy đều là hai thứ/ Làm cho tôi mê mẩn suốt đời ”. Đây có lẽ là bài thơ cuối cùng được in trên báo, bởi sau đó ông bị bạo bệnh.
Sự nghiệp sáng tác của Lâm Quý có mặt mạnh riêng đang độ nở rộ. Viết văn xuôi anh có Chàng Tiên lợn, Sưu và Mốc (Truyện thiếu nhi năm 2000 và 2002), Cái lều nương (Nhà xuất bản HNV năm 2007). Lâm Quý cũng đã xuất bản tám cuốn sách về văn hoá dân tộc Cao Lan: Truyện thơ, truyện cổ tích ... Cuốn: Văn hoá các dân tộc thiểu số Vĩnh Phúc được giải B - 5 năm (2001-2005) của UBND tỉnh Vĩnh Phúc. Lâm Quý tài hoa trong dịch thơ của dân tộc mình, tiêu biểu tập “Xịnh ca Cao Lan” (đêm hát thứ nhất) vừa sưu tầm, vừa dịch thuật gồm 1064 câu, chia ra 266 khổ. Nội dung tập sách phản ánh cuộc sống xã hội Cao Lan xưa, thể hiện tâm hồn tình cảm của họ trước trước cảnh đẹp thiên nhiên, tình yêu lứa đôi thông qua hình thức hát đối đáp giao duyên nam nữ. Đồng thời đây cũng là một tập sử ca kể về cuộc di cư lịch sử của người dân tộc Cao Lan từ Trung Quốc sang Việt Nam cách đây 350 – 400 năm.
Từ năm 1995, Lâm Quý kiêm thêm nghề thầy cúng do kết tinh học vấn, và sự uyên thâm văn hoá Cao Lan. Anh đã được các vị đứng đầu thầy cúng ở tỉnh Yên Bái ban sắc phong hạng nhất có uy tín lớn.
Tiết thanh minh năm Kỷ Sửu , tôi ghé thăm nhà ông Lâm Quý. Đã gần hai năm, Quý về với “Mẹ núi Làng Then”, tên một bài thơ viết tặng quê hương nhưng trên ban thờ ở nhà này vẫn có hoa tươi, hương trầm, chén rượu đầy và gặp khuôn mặt phúc hậu, nụ cười tươi của người quá cố.
Tôi gợi ý với cháu Lâm Đào An về gia tài thơ của bố cháu, cả những bài đã đăng báo hay còn ở dạng bản thảo. Cháu An cho hay từ ngày em trai và bố mất đi, nỗi buồn còn đè nặng ngôi nhà ống chật chội. An chưa có điều kiện tập hợp toàn bộ sáng tác của bố. Riêng về thơ có hai bài, giờ đọc lại thấy vận vào số phận của mẹ, đặc biệt là của bố Quý.
Bài thơ ấy có đoạn: “ở nơi ấy có một người/ Nuôi con tần tảo suốt đời cho tôi/ Nửa đêm con ngủ say rồi/ Nàng dành nửa gối mong tôi trở về…”.
An khẳng định mẹ Sình là người hy sinh chịu đựng suốt tuổi thanh xuân, từ khi về làm dâu nhà họ Lâm cho đến hôm nay. Bố Lâm Quí đi B nhưng gia đình không được hưởng chế độ. Mẹ lao động quần quật để nuôi ông bà nội, hai chị em còn thơ dại. Nặng gánh gia đình, không tham gia được đầy đủ công tác xã hội, đành phải báo cáo chi bộ cho xin không sinh hoạt Đảng. Bố chuyển công tác ra miền Bắc, mẹ phải đi theo bố hết Việt Trì, lên Yên Bái, bán quán vặt vãnh, kiếm thêm tiền nuôi bốn con và chăm sóc bố.
Giọng bà Sình đượm nét băn khoăn với việc đổi thay cuộc sống của gia đình: “Nếu tôi vẫn ở lại Quang Yên làm nghề nông, chăm sóc các con, hẳn anh Quý đỡ lam lũ đời thường và có điều kiện phấn đấu thuận lợi. Anh ấy luôn giành thuận lợi cho vợ con, ngay cả chuyện ăn mặc thường ngày. Cháu An tốt nghiệp đại học, xin việc khó khăn, anh đã xin nghỉ hưu sớm 5 năm để cháu An được vào cơ quan TTXVN thường trú ở Vĩnh Phúc. Năm 2005 anh lâm thứ bệnh nan y, khó chữa khỏi, đã từ chối mọi sự chạy chữa của vợ con, anh em với ý nghĩ không ảnh hưởng đến kinh tế gia đình”.
Bà Sình mắt đỏ hoe, giọng lẫn trong tiếng nấc: “anh đã động viên tôi. Trời cho vợ chồng mình có trai có gái, nào ngờ trời lại bắt đi đứa con trai duy nhất. Tôi biết, trời cũng sắp bắt luôn tôi ở tuổi 60. Lâu dài, trong ba đứa con gái, bà chọn ở hẳn với một đứa nào đó để cho vui cảnh gia đình, có người thắp hương, tiếp rượu cho tôi. Chỉ vài ngày sau, trời đã bắt anh vào lúc 4 giờ chiều ngày 25/6/2007 năm Đinh Hợi. Anh ấy cầm tinh con lợn rừng, thì chạy vào rừng để sống tiếp cõi đời còn lại, hẳn anh ấy cũng yên lòng ”.
Tôi chú ý tới bài tứ tuyệt “Mắt em là chén rượu đầy/ Để cho anh uống mà say suốt đời/ Đành rằng có lúc đầy vơi/ Trong nồng nàn vẫn không rời thương nhau” (Mắt em) bài thơ tặng Sình với chú giải “Tại khi đang uống rượu với bạn, nàng vợ hay liếc chồng ý nhắn rằng uống vừa vừa thôi”.
Cháu An cho biết từ khi bài thơ “Mắt em” đăng báo, mẹ Sình chiều bố, mua thứ quốc lủi của quê nhà. Đi công tác xa về, rượu vào chuyện bố kể rôm rả, lấy quà ra chia đầy đủ cho vợ con.
Lâm Quý tửu lượng khá, nhưng không thuộc diện nát rượu, không bị say, càng uống càng tỉnh. Tuyệt nhiên không có chuyện “rượu vào lời ra” . ấy vậy mà dư luận truyền miệng lan ra từ Việt Trì xuống Vĩnh Yên rằng nhà thơ Lâm Quý diện nát rượu, dễ hỏng công việc sau khi nâng chén.
Năm 2002 Lâm Quý chuyển gia đình về thành phố Vĩnh Yên. Đến thăm tôi, anh có ý nhờ tôi xem có nơi nào nhận anh làm hợp đồng cho đỡ cảnh hiu hắt về hưu ở tuổi 55. Tôi đặt vấn đề với ông Tiến, Giám đốc thư viện tỉnh. Một tuần sau, ông Tiến cho biết nhà thơ Lâm Quý rất hợp với mảng văn hoá dân tộc thiểu số của thư viện nhưng dư luận cánh văn nghệ sĩ là anh nát rượu. Thư viện tỉnh nhân viên toàn sinh viên trẻ mới ra trường không hợp với sinh hoạt của nhà thơ. Anh nói với Quý chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ, tạo điều kiện để anh viết về dân tộc mình. Một vài nơi nữa tôi gặp, đều khước từ. Có điều Sở VH TTTTDL, thư viện tỉnh đã tạo điều kiện cho ông ra mấy cuốn sách viết về dân tộc thiểu số.
Tôi lại được chứng kiến câu chuyện giữa nhà thơ Hữu Thỉnh với Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc Trịnh Đình Dũng trước ngày khai mạc Đại hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ 6, tại toà soạn báo Văn Nghệ số 17 Trần Quốc Toản. Anh HữuThỉnh bảo tôi ở lại phòng, đàm thoại chừng 10 phút. Dứt câu chuyện Hữu Thỉnh vẻ mãn nguyện, nói: vấn đề bây giờ là các cậu ủng hộ nó lá phiếu.
Hữu Thỉnh tiễn tôi với câu nói nặng nghĩa tình: “Lâm Quý viết khá, hạn chế là cuộc sống gia đình quá vất vả. Anh em cùng trang lứa đi chiến trường ra, giờ công việc, cuộc sống rất thuận lợi. Anh em ở Hội Nhà văn người quê Vĩnh Phúc muốn giúp đỡ Quý có một vị trí ở Hội Văn nghệ địa phương thời gian nghỉ hưu sớm. Cậu thông cảm, mình chỉ truyền đạt ý kiến của anh em mà thôi”.
Sau khi Lâm Quý mất tập truyện “Cái lều nương” mới in xong.
Nhà thơ hoạ sĩ Trần Nhương đã trình bày bìa tập thơ mới “Hoa đỏ lửa” của Lâm Quý theo yêu cầu của nhà thơ Nguyễn Ngọc Tung. Lâm Quý được xem bìa sách trong giây phút vừa ngớt cơn đau. Tập sách hiện nay vẫn chưa thực hiện được.
Cháu An có ý muốn thực hiện nguyện vọng của bố là in một tuyển tập. Tôi tự nghĩ nguyện vọng ấy chính đáng quá, bởi lẽ cho đến nay, hình như Quý vẫn là nhà thơ duy nhất của người Cao Lan là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Theo Nguyễn Cảnh Tuấn (Văn nghệ)
nguyenty