Sáng 12-12, tại Trường Đại học Luật TP.HCM, Bộ GD&ĐT tổ chức Hội nghị sơ kết triển khai chương trình tăng cường kiểm soát và nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân ngành luật giai đoạn 2023–2025. Sự kiện có sự tham dự của 112 cơ sở giáo dục đại học (ĐH) trên cả nước.
Củng cố chuẩn và sẽ tăng cường thanh tra - giám sát
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Văn Phúc nhấn mạnh Chương trình 1056 là bước đột phá nhằm thiết lập cơ chế kiểm soát chặt chẽ và nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân luật trong bối cảnh cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Ông cho biết sự thay đổi nhanh của hệ thống pháp luật và thị trường nhân lực đòi hỏi đội ngũ có năng lực chuyên môn, kỹ năng và phẩm chất nghề nghiệp cao, vì vậy chương trình hướng tới chuẩn hóa thể chế, chuẩn chương trình đào tạo, đội ngũ giảng viên, điều kiện bảo đảm chất lượng và cơ chế kiểm định. Các văn bản đã ban hành tạo khung pháp lý nền tảng, thống nhất quản trị học thuật giữa các cơ sở đào tạo.
Thứ trưởng cũng ghi nhận những kết quả đầu tiên như chương trình đào tạo được rà soát – chuẩn hóa, phương pháp giảng dạy tăng cường mô phỏng và tranh biện, hoạt động kiểm định được đẩy mạnh và tinh thần đổi mới của đội ngũ giảng viên có chuyển biến rõ rệt.
Tuy nhiên, ông cũng chỉ rõ những tồn tại cần được nhìn nhận thẳng thắn: Sự chênh lệch về chất lượng đội ngũ giữa các cơ sở đào tạo; mức độ gắn kết với thực tiễn chưa đồng đều; năng lực chuyển đổi số và học liệu điện tử còn hạn chế; cũng như tiến độ kiểm định chương trình chưa tương xứng với yêu cầu.
Định hướng giai đoạn tiếp theo, Thứ trưởng Nguyễn Văn Phúc khẳng định Bộ GD&ĐT sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, củng cố chuẩn chương trình đào tạo, tăng cường thanh tra – giám sát, thúc đẩy các mô hình hợp tác quốc tế, và hỗ trợ chuyển đổi số trong đào tạo luật.
Từ đó, Thứ trưởng kêu gọi các cơ sở đào tạo tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm, đổi mới sáng tạo và đồng hành chặt chẽ cùng Bộ để đến năm 2030 hình thành hệ thống đào tạo pháp luật chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Dùng giảng viên cơ hữu để “mở ngành” nhưng không trực tiếp dạy
Báo cáo tại hội nghị do Vụ Giáo dục ĐH (Bộ GD&ĐT) trình bày, mục tiêu đến năm 2030, 100% cơ sở đào tạo luật đáp ứng chuẩn chương trình đào tạo, toàn bộ chương trình đủ điều kiện kiểm định và được kiểm định chất lượng; nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, tăng tỉ lệ tiến sĩ, tăng cường thực hành pháp lý và hoàn thiện cơ sở vật chất, đặc biệt phòng diễn án, phòng mô phỏng và học liệu số.
Về triển khai, Bộ GD&ĐT đã hoàn thiện khung pháp lý quan trọng: Luật GDĐH (sửa đổi); Bộ đã phối hợp với các bộ, ngành xây dựng chuẩn chương trình đào tạo, điều kiện đảm bảo chất lượng, ngưỡng đảm bảo chất lượng đầu vào và quy định kiểm định bắt buộc đối với chương trình đào tạo luật; ban hành hai kế hoạch nhằm rà soát chương trình và yêu cầu các cơ sở đào tạo báo cáo kết quả thực hiện.
Tuy nhiên, báo cáo cũng chỉ ra hàng loạt tồn tại mang tính hệ thống. Hệ thống đào tạo luật phát triển nhanh về số lượng trong hai thập niên qua nhưng điều kiện bảo đảm chất lượng không theo kịp; chất lượng đầu ra chưa đồng đều; nhiều sinh viên còn yếu kỹ năng nghề nghiệp cơ bản như soạn thảo văn bản, xử lý hồ sơ vụ việc; năng lực ngoại ngữ pháp lý hạn chế.
Chương trình đào tạo tại nhiều cơ sở còn thiên về lý thuyết, chậm cập nhật pháp luật thời đại số, thực tập mang tính hình thức và thiếu hướng dẫn chuyên môn.
Báo cáo cũng nêu thực trạng thiếu giảng viên có học vị tiến sĩ đúng ngành, thiếu trải nghiệm thực tiễn, năng lực nghiên cứu khoa học còn hạn chế, nhất là công bố quốc tế. Có nơi dùng giảng viên cơ hữu để “mở ngành” nhưng không trực tiếp dạy, hoặc ngược lại giảng viên bị quá tải nhiều học phần...
Ngoài ra, nhiều cơ sở thiếu phòng diễn án, phòng mô phỏng, học liệu chuẩn hóa và cơ sở dữ liệu pháp luật quốc tế; thực tập phụ thuộc nhiều vào cơ quan tư pháp địa phương nên không đồng đều.
Công tác nghiên cứu khoa học, chuyển đổi số, đào tạo từ xa và hội nhập quốc tế cũng còn nhiều bất cập. Báo cáo nêu rõ một số cơ quan tư pháp chỉ tuyển sinh viên từ trường công, gây bất bình đẳng với sinh viên trường tư; cơ chế phối hợp giữa nhà trường – cơ quan tư pháp – doanh nghiệp còn rời rạc, thiếu phản hồi chính thức từ đơn vị sử dụng lao động.
Từ thực trạng trên, Bộ GD&ĐT kiến nghị Quốc hội tăng cường giám sát tối cao việc triển khai Luật Giáo dục ĐH (sửa đổi), đặc biệt đối với hai ngành đào tạo đặc thù có tác động xã hội lớn là pháp luật và y khoa, nhằm bảo đảm thực thi thống nhất và hiệu quả. Báo cáo cũng đề nghị Quốc hội xem xét cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển hệ thống đào tạo nhân lực pháp lý chất lượng cao.
Đối với Chính phủ, Bộ đề nghị ban hành nghị định hướng dẫn Luật Giáo dục ĐH (sửa đổi) về đào tạo pháp luật và xem xét cơ chế hỗ trợ có mục tiêu cho các trường trọng điểm. Báo cáo cũng đưa ra các kiến nghị tới Bộ Tư pháp, UBND các tỉnh, thành và các cơ sở đào tạo nhằm tăng cường phối hợp, tạo điều kiện thực hành – thực tập, chuẩn hóa chương trình và đội ngũ giảng viên, cũng như dự báo nhu cầu nhân lực phục vụ điều tiết quy mô đào tạo.
Cần chuẩn hóa khung năng lực theo mô hình “học thuật – nghề nghiệp”
Hội nghị ghi nhận nhiều tham luận với góc nhìn đa dạng về nâng cao chất lượng đào tạo luật. PGS.TS Trần Việt Dũng, Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Luật TP.HCM nhấn mạnh yêu cầu cấp thiết phải kiểm soát chất lượng giảng dạy và chuẩn hóa đội ngũ trong bối cảnh đổi mới và hội nhập.
Ông chỉ ra khoảng cách giữa lý luận và thực tiễn, hạn chế của cơ chế pháp lý đối với giảng viên và bất cập của hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ. Các giải pháp được đề xuất gồm chuẩn hóa khung năng lực theo mô hình “học thuật – nghề nghiệp”, cho phép giảng viên hành nghề có kiểm soát, hoàn thiện hệ thống đánh giá – xếp hạng và hiện đại hóa môi trường đào tạo gắn với công nghệ số.
Trường ĐH Luật Hà Nội, Trường ĐH Luật – ĐH Quốc gia Hà Nội và Trường ĐH Luật – ĐH Huế đều nhấn mạnh đổi mới chương trình theo chuẩn đầu ra, tăng cường thực hành và gắn đào tạo với nhu cầu xã hội. Trường ĐH Kinh tế – Luật (ĐH Quốc gia TP.HCM) chia sẻ kinh nghiệm chuẩn hóa đội ngũ, rà soát chương trình định kỳ và đối sánh quốc tế theo yêu cầu của Quyết định 678 và Chương trình 1056…
Từ các tham luận, mẫu số chung là yêu cầu chuẩn hóa chương trình, nâng cao năng lực giảng viên, mở rộng thực hành – thực tập và tăng cường gắn kết với cơ quan sử dụng nhân lực pháp lý.
Trong phiên thảo luận, các ý kiến tập trung vào thách thức xây dựng đội ngũ có năng lực thực tiễn, tăng cường phối hợp giữa trường – cơ quan tư pháp – tổ chức nghề nghiệp, triển khai chuẩn chương trình trong bối cảnh tự chủ, phát triển học liệu số và hoàn thiện cơ chế giám sát chất lượng trên phạm vi toàn quốc. Nhiều ý kiến nhấn mạnh đào tạo luật cần đi sâu thực tiễn và đáp ứng các vấn đề pháp lý mới trong môi trường số và thương mại điện tử.
Chuẩn chương trình đào tạo ngành luật (Bộ GD&ĐT)
Chuẩn đầu ra
Kiến thức: Lý luận, lịch sử Nhà nước và Pháp luật, học thuyết pháp lý; luật Hiến pháp, hành chính, dân sự, hình sự, kinh tế, quốc tế…
Kỹ năng: Giao tiếp; phân tích – đánh giá pháp luật; phản biện; soạn thảo văn bản; giải quyết vụ việc; sử dụng công nghệ thông tin; ngoại ngữ bậc 3+.
Tự chủ – trách nhiệm: Thượng tôn pháp luật; đạo đức nghề luật; làm việc độc lập/nhóm; tự chủ, thích ứng, chịu trách nhiệm và hướng dẫn người khác.
Chuẩn đầu vào
Tốt nghiệp THPT; điểm xét tuyển tối thiểu 60% thang điểm.
Áp dụng cho mọi hình thức đào tạo (trừ người đã có bằng ĐH).
Cấu trúc chương trình
Tối thiểu 120 tín chỉ, phần cơ sở + cốt lõi tối đa 65%.
Cơ sở ngành: ≥16 tín chỉ.
Cốt lõi ngành: ≥44 tín chỉ (Hiến pháp – hành chính; hình sự; dân sự; kinh tế; quốc tế).
Thực tập – trải nghiệm: 7–15 tín chỉ, bắt buộc.
Đội ngũ giảng viên
Tối thiểu trình độ thạc sĩ; có kinh nghiệm thực tiễn; mỗi giảng viên có ít nhất 1 công trình/năm.
Mỗi chương trình có 1 tiến sĩ cơ hữu chủ trì (≥5 năm kinh nghiệm).
Mỗi nhóm kiến thức cốt lõi có 1 tiến sĩ cơ hữu phụ trách (≥3 năm).
≥70% giảng dạy do giảng viên cơ hữu đảm nhiệm.
Cơ sở vật chất – học liệu
Phòng học, thư viện số, phòng máy, hệ thống LMS.
Phòng diễn án, văn phòng thực hành pháp lý.
Truy cập cơ sở dữ liệu pháp luật Việt Nam và ít nhất một cơ sở dữ liệu pháp luật nước ngoài; hợp tác với cơ sở hành nghề để tổ chức thực tập.