Nhà sử học Niall Ferguson lại quả quyết: nợ nần ngập cổ và chi tiêu xả láng chỉ làm cho đế quốc vốn không được mạnh khỏe này mau tan rã hơn. Nhà kinh tế học Havard, Kenneth Rogoff sợ rằng Hoa Kỳ sẽ cùng chung số phận với Hy Lạp. Tháng 1-2010, tại diễn đàn Davos, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy từng được mệnh danh là “người Mỹ” cũng cho rằng thế giới đã... xui xẻo đi theo mô hình chủ nghĩa tư bản của nước Mỹ.
Thực ra, suy thoái kinh tế Mỹ đã bị khuếch đại một cách quá đáng. Hoa Kỳ đã phục hồi nhanh hơn các chuyên gia tưởng tượng. Chỉ số Dow Jones đã tăng 70 điểm trong suốt 13 tháng qua, và lượng xe hơi bán ra trong quý 1-2010 tăng 16% so với cùng kỳ năm ngoái. Tháng 3-2010, kinh tế đã tạo ra được 162.000 việc làm, trong đó công nghiệp chế tạo là 17.000. Đồng đôla lấy lại được sức mạnh và tăng trưởng cao hơn châu Âu lẫn Nhật Bản. Trong số các cường quốc, chỉ có Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil còn giữ tốc độ cao. Theo dự kiến của Văn phòng tư vấn kinh tế vĩ mô, năm 2010 kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng 3,6% và tạo thêm thu nhập khoảng 513 tỉ USD, tương đương với PIB của Indonesia. Trong tình thế đó, tại sao lại có người quá bi quan?
Biếm họa của báo Tây Ban Nha
Bất động sản và thâm thủng ngân sách chóng mặt vẫn còn là những vấn đề nghiêm trọng. Nhưng phần lớn các chuyên gia lại quên đi lợi thế cạnh tranh thực sự của nước Mỹ. Khả năng phản ứng nhanh chóng, ý chí quyết tâm triệt tiêu nợ nần và vội vã tái cấu trúc... là những nét đặc trưng xuất sắc tại Hoa Kỳ. Nhà xã hội học Richard Florida nói: “Chúng ta là một quốc gia biết thích nghi và sáng tạo nhất. Chúng ta đã chứng minh điều đó bằng chính sự tồn tại của mình”. Nếu biết dựa vào các lợi thế này, Hoa Kỳ sẽ vẫn còn là siêu cường quốc trong vài chục năm tới.
Nền kinh tế của nước Mỹ ra sao khi sương mù đã tan hết? Dĩ nhiên, sẽ có ít những căn nhà khổng lồ với bốn garage, nhưng lại nhiều nhà đơn giản và biệt lập hơn. Ít xe hơi 4x4 hơn loại lai giống, vừa chạy xăng vừa chạy điện. Ít nợ nần và nhiều vốn liếng tích lũy hơn. Nhiều hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu năng lượng ít hơn. Sẽ có nhiều hạ tầng thương mại mới hơn và nhiều công nghiệp môi trường hơn để thúc đẩy tăng trưởng. Chẳng hạn Internet trong thập niên 1990. Để đối phó với cuộc khủng hoảng hiện nay, các xí nghiệp đã chọn giải pháp giảm giá thành. Giữa quý 4-2008 với tháng 4-2009, sản xuất tăng 5,8% so với 1,7% của năm 2007 và 2,1% năm 2008.
Hãy lấy hai lĩnh vực độc lập với nhau làm thí dụ: năng lượng và xe hơi. Từ hai năm qua, chính sách cũ nhằm tiếp hơi cho bất động sản và Wall Street đã được thay thế bằng cách dựa vào hiệu quả. Nhà sản xuất điện gió Vestas tuyên bố sẽ đầu tư 1 tỉ USD vào các nhà máy ở Colorado, mà khi vận hành sẽ sử dụng đến 2.500 công nhân. Vestas sẽ còn lôi hàng chục nhà cung cấp hàng nữa. Không chỉ dừng lại ở đó, năm 2008, hệ thống năng lượng tái tạo Mỹ, nhà quản lý những “nhà máy điện gió” lớn nhất Hoa Kỳ đã di chuyển trụ sở đến Broomfiled, bang Colorado. Tháng 3-2010, chính phủ tuyên bố: cho đến năm 2020, 30% điện năng của Hoa Kỳ sẽ là nguồn tái tạo vô tận.
Sức bật tương tự đã xảy ra trong lĩnh vực xe hơi, vốn bị khốn đốn trong thời kỳ khủng hoảng vừa qua. Cho đến năm 2016, xe hơi Mỹ sẽ đạt chỉ tiêu 6,7 lít xăng/100km so với 11,8 lít hiện nay. Nhiều hãng xe hơi như Ford, Fisker... được cho vay tiền để chuyển đổi quy trình sản xuất. Chiếc xe hơi lai giống Karma đầu tiên của Fisker sẽ được bán với giá 87.000USD vào cuối năm 2010.
Nếu Hoa Kỳ còn biết tiếp tục thích ứng và tạo ra những yếu tố cách mạng mới như Google và Apple, thì chẳng có lý do gì để sự hồi phục, vốn khởi đầu từ tháng 7-2009 không tiếp tục kéo dài lâu hơn nữa.
Theo Đinh Công Thành (CATP/LCI)