Ngày 9-12, Quốc hội (QH) đã thảo luận tại hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Đây là dự luật mà nói như đại biểu (ĐB) Trần Hữu Hậu (Tây Ninh), Chính phủ, Bộ Tài chính và ngành thuế Việt Nam đã thực sự lắng nghe, thực sự thấu hiểu, thực sự có trách nhiệm với doanh nghiệp để nhanh chóng, kịp thời trình sửa đổi.
Theo quy định cũ, Nhà nước và doanh nghiệp đều thiệt
ĐB Trần Hữu Hậu cho rằng QH sửa luật lần này sẽ giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam giảm hàng chục ngàn tỉ vốn bỏ ra để nộp thuế, phải trả lãi, để rồi sau đó lại được Nhà nước hoàn lại.
“Về số tiền thì có vẻ như doanh nghiệp không mất gì nhưng về giá trị thì doanh nghiệp mất rất nhiều. Không chỉ là trả lãi cho khoản tiền vay để trả cho khoản nộp thuế trước, mà số tiền ấy nếu được đưa vào kinh doanh sẽ sinh thêm lợi nhuận” - ĐB Hậu nói.
Theo ông, trong điều kiện khó khăn của nông sản Việt Nam khi cạnh tranh trên thương trường quốc tế thì chỉ chút ít phần trăm lợi nhuận cũng giúp cho doanh nghiệp rất nhiều, vững vàng hơn trong cạnh tranh và phát triển.
“Nếu giữ như quy định cũ, hàng chục ngàn doanh nghiệp, hàng ngàn cán bộ thuế phải mất nhiều thời gian, công sức để làm thủ tục này và sẽ không tránh khỏi những tiêu cực của “cơ chế xin-cho” - ông Hậu nói..
“Người mua không có quyền và trách nhiệm can thiệp vào hoạt động kinh doanh của người bán. Trong thực tế, người mua không có công cụ để kiểm tra và yêu cầu người bán thực hiện nghĩa vụ thuế của họ. Do đó, không thể phải chịu trách nhiệm về sự tuân thủ của người khác và chỉ được nhận tiền của mình được hưởng khi người bán kê khai nộp thuế. Bởi trách nhiệm thu thuế là của cơ quan thuế” - ĐB Hậu nói.
Cũng theo ĐB Hậu, một xã hội muốn phát triển phải vận hành trên niềm tin vào cái tốt, khuyến khích cái tốt, không thể chỉ vì để ngăn chặn hành vi gian lận của một số DN mà bắt phần đông DN nghiêm túc phải khó khăn, thiệt thòi.
Nâng cấp và làm rõ các điều kiện hoàn thuế
Tại buổi thảo luận, ĐB Trần Anh Tuấn cho rằng người mua hàng hóa đã thực tế chịu và nộp thuế giá trị gia tăng, khoản thuế này được tính trong giá mua và đã nộp vào ngân sách. Còn việc người bán có nộp thuế đúng hay không là trách nhiệm của cơ quan thuế và cơ quan quản lý nhà nước, không thể chuyển gánh nặng đó sang người mua.
Ông cũng cho rằng việc quản lý thuế đối với người bán hiện còn hạn chế, nên nếu tiếp tục duy trì điều kiện phụ thuộc vào việc người bán đã nộp thuế hay chưa vô hình trung buộc người mua phải chịu rủi ro và trách nhiệm thay cho người bán, điều này là không phù hợp.
Do đó, vị ĐB Tuấn đồng tình việc bãi bỏ quy định này để quy trình hoàn thuế được thực hiện nhanh hơn.
Theo tờ trình của Chính phủ, vướng mắc trong công tác hoàn thuế thời gian qua là rất lớn, đặc biệt đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chiếm tới 90%-95% sản lượng xuất khẩu.
Việc sửa luật lần này thậm chí còn giải phóng cho các DN một trách nhiệm nhiều khi là bất khả thi và nhiều rủi ro. Đó là việc phải kiểm tra tình trạng tuân thủ thuế của người bán hàng cho mình, nhắc nhở họ kê khai, nộp thuế để sau đó mình được hoàn thuế. Dù hồ sơ, chứng từ và việc thanh toán của mình đã đầy đủ, rõ ràng và đúng quy định
“Khi DN xuất khẩu phải phụ thuộc vào việc người bán có nộp thuế hay không mới được hoàn thuế, thì vốn lưu động của DN bị hạn chế, thậm chí bị chiếm dụng, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh” - ông Tuấn nói.
Theo ĐB, việc bỏ điều kiện này là cần thiết để nâng cấp phương pháp quản lý thu - hoàn thuế, đồng thời tạo điều kiện cho DN được hoàn thuế nhanh hơn, đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
Về vấn đề hoàn thuế GTGT, ĐB Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) cho rằng việc bỏ điều kiện “người bán đã kê khai, nộp thuế” được giải trình khá mỏng, chủ yếu trông vào Luật Quản lý thuế đang trình nhưng không đưa ra cơ chế bảo vệ ngân sách và DN khi điều kiện này bị gỡ bỏ.
“Tôi kiến nghị áp dụng hoàn thuế tự động theo mức độ rủi ro. Theo đó, DN tuân thủ tốt sẽ được hoàn thuế trong thời hạn cố định (ví dụ 30 ngày); DN rủi ro cao phải kiểm tra trước hoàn thuế. Không thể chỉ nói chung “rút ngắn thời gian hoàn thuế” như trong báo cáo, mà cần khung thời hạn và chế tài nếu cơ quan thuế kéo dài gây đọng vốn DN” - ĐB Đồng nói.
Bỏ quy định hoàn thuế gây khó khăn cho doanh nghiệp
Giải trình ý kiến các ĐB, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho biết dự thảo luật sửa đổi theo hướng lược bỏ nội dung về áp dụng thuế suất GTGT cho sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản (chưa chế biến hoặc chỉ qua sơ chế thông thường) được sử dụng làm thức ăn chăn nuôi dược liệu.
Việc này nhằm đảm bảo áp dụng thuế GTGT đồng bộ theo pháp luật về thức ăn chăn nuôi, quan trọng là đảm bảo bình đẳng với thức ăn chăn nuôi nhập khẩu, bởi thức ăn chăn nuôi nhập khẩu không chịu thuế. Thức ăn chăn nuôi sản xuất trong nước hiện có thuế GTGT đầu vào 5% và phải tính vào chi phí, làm tăng giá bán, ảnh hưởng đến người chăn nuôi và giảm khả năng cạnh tranh.
“Việc sửa đổi sẽ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, nhất là trong bối cảnh nông nghiệp bị ảnh hưởng nhiều bởi thiên tai mưa lũ” - Bộ trưởng nói.
Dự luật trình Quốc hội cũng đề xuất sửa đổi quy định điều kiện hoàn thuế, cụ thể là bãi bỏ yêu cầu bên bán đã kê khai nộp thuế GTGT, bên mua mới được hoàn thuế. Quy định này được xác định là một giải pháp quản lý thuế khi Luật Quản lý thuế chưa được sửa đổi.
Theo Bộ trưởng, trong quá trình triển khai, Bộ Tài chính nhận được rất nhiều ý kiến của các doanh nghiệp, cho rằng việc kê khai nộp thuế thuộc trách nhiệm của người bán, còn việc hoàn thuế là quyền lợi của người mua. Yêu cầu bên mua phải chứng minh bên bán đã hoàn thành nghĩa vụ thuế là “không phù hợp” và gây khó khăn cho DN, vì bên mua không thể xác minh hay chứng minh được tình trạng nộp thuế của bên bán.
“Việc bỏ nội dung quy định này có thể sẽ khiến cán bộ thuế vất vả hơn rất nhiều, thậm chí có những rủi ro nhất định trong quá trình quản lý. Song nếu không bỏ, lại phải để DN phải chịu trách nhiệm về việc quản lý thuế của một chủ thể kinh doanh khác. Đến ngay cả thành viên trong gia đình hai người cũng rất là khó để mà bảo ban nhau chưa nói lại là chịu trách nhiệm cho nhau, Bộ trưởng nói và nhấn thêm: “Dứt khoát là phải bỏ để đảm bảo sự công bằng”.
Một số ĐB thì băn khoăn về thời điểm có hiệu lực thi hành, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng giải trình: Hiện nay, các điều kiện cần thiết, bao gồm nghị định, thông tư hướng dẫn và chương trình phần mềm hóa đơn đã được Bộ Tài chính chuẩn bị đầy đủ. Thay mặt Chính phủ, Bộ trưởng đề nghị QH cho phép luật có hiệu lực ngay từ ngày 1-1-2026 để kịp thời hỗ trợ chính sách cho lĩnh vực nông nghiệp.
Sửa đổi Luật Thuế GTGT, Bộ Tài chính cảm thấy chưa làm tròn trách nhiệm
Việc Bộ Tài chính tham mưu Chính phủ trình QH sửa đổi một số điều của Luật Thuế GTGT chỉ sau vài tháng áp dụng là điều mà bản thân Bộ Tài chính cảm thấy chưa làm tròn trách nhiệm. Tuy nhiên, việc sửa đổi là cần thiết và cấp bách bởi trong quá trình thực thi luật đã phát sinh rất nhiều vướng mắc mà các DN lớn trong lĩnh vực nông sản như Vinafood 1, Vinfood 2, tổng công ty cà phê, chè… đến các hiệp hội đã phản ánh. Qua tiếp xúc, lắng nghe, Chính phủ đã quyết tâm trình QH tiếp tục sửa đổi một số nội dung.
Về chính sách thuế đối với hàng nông sản, vấn đề được ĐBQH quan tâm nhiều nhất, Luật Thuế năm 2008 đã xác định đối tượng này chịu thuế GTGT 5%. Tuy nhiên, điều này đã dẫn đến việc nhiều DN lợi dụng mua bán hóa đơn lòng vòng qua nhiều khâu để gian lận hoàn thuế. Vì vậy, Luật Thuế GTGT năm 2016 đã sửa đổi theo hướng đây là đối tượng không phải chịu thuế. Đến năm 2024, luật được sửa đổi, đưa nông sản vào đối tượng chịu thuế với mức 5% nhưng quá trình triển khai gặp nhiều vướng mắc.
Do vậy, Chính phủ đề nghị điều chỉnh lại theo đúng nội dung của Luật Thuế năm 2016. Tinh thần là sẽ thực hiện các quy định theo cách thức của Luật Thuế năm 2016 và việc này đã được thực hiện ổn định trong thời gian dài.
Bộ trưởng NGUYỄN VĂN THẮNG