PLO xin dẫn lại bài phản biện này.
Trong bài viết “Vietnam’s dangerous acts”, Liu Hongyang nói rằng các quần đảo Tây Sa (thực tế là Hoàng Sa Việt Nam) là “lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc”. Liu Hongyang viện dẫn rằng cộng đồng quốc tế đã thừa nhận điều đó từ Thế chiến thứ 2, khi cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng “công khai thừa nhận Tây Sa và các đảo khác là lãnh thổ của Trung Quốc vào ngày 14-9-1958” (Công hàm 1958-PV). Trước lời lẽ của Liu Hongyang, “tôi buộc phải đưa ra luận điểm để khẳng định lại sự thật”.
Việt Nam được lịch sử, luật pháp ủng hộ
Trước tiên, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Rõ ràng theo các bộ hồ sơ lịch sử chính thức, Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình một cách hòa bình và liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ít nhất là từ thế kỷ 17, khi những vùng lãnh thổ này còn được coi là terra nullius (lãnh thổ vô chủ, tức là vùng lãnh thổ không thuộc chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào-PV).
Việc xây dựng một ngôi chùa vào năm 1835, và đặt một tượng đài bằng đá trên quần đảo Hoàng Sa vào thời Vua Minh Mạng là một ví dụ thuyết phục cho thấy các hoàng đế Việt Nam đã trông coi, củng cố chủ quyền của Việt Nam trên các vùng lãnh thổ.
Về phần Trung Quốc, nước này đã không thể hiện được các tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ngược lại, trong nhiều bản đồ mô tả lãnh thổ Trung Quốc dưới triều đại nhà Thanh cho thấy đảo Hải Nam là cực nam của lãnh thổ Trung Quốc. Một trong những bản đồ đó vừa được Thủ tướng Đức Angela Merkel đích thân tặng cho Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khi ông Tập Cận Bình đến thăm CHLB Đức hồi tháng 3-2014.
Bài viết của đại sứ Nguyễn Xuân Thủy trên Jakarta Post
Khi Pháp thiết lập sự bảo hộ đối với Việt Nam vào năm 1884, Pháp đã tiếp quản việc quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên danh nghĩa của Việt Nam. Thêm vào đó, chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được công nhận bởi Hội nghị Hòa bình San Francisco tổ chức vào tháng năm 1951, với sự tham dự của các nhà lãnh đạo đến từ 51 quốc gia, với mục đích giải quyết các vấn đề lãnh thổ sau chiến tranh thế giới II.
Tại hội nghị này, người đứng đầu phái đoàn Việt Nam, ông Trần Văn Hữu, sau này là thủ tướng dưới thời vua Bảo Đại, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà không có bất kì sự phản đối nào từ 50 phái đoàn còn lại.
Trong khi đó, một điều thú vị khác cũng diễn ra tại hội nghị San Francisco, khi có đến 46 trên tổng số 51 phái đoàn tham gia đã bác bỏ đề xuất công nhận chủ quyền Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa trong Hiệp ước Hòa bình San Francisco.
Ngoài ra, các đại biểu tham dự Hội nghị Genève 1954 về việc khôi phục hòa bình ở Đông Dương, kể cả Trung Quốc, cũng công nhận và tôn trọng độc lập, và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Chính bởi là một thành viên trong Hội nghị này, Pháp đã tuân thủ hiệp ước San Francisco và rút quân ra khỏi Việt Nam vào năm 1956. Sau khi Pháp rút lui, Việt Nam Cộng Hòa đã tiếp tục quản lý trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời thực hiện nhiều hành động khác nhau, và đưa ra nhiều tuyên bố khẳng định chủ quyền đối với các quần đảo này.
Phải khẳng định rằng vào năm 1974, Trung Quốc đã dùng vũ lực để chiếm quần đảo Hoàng Sa. Hành động xâm lược này đã vi phạm một chuẩn mực về tính cưỡng bức chiếu theo luật quốc tế (jus cogens hay Quy phạm mệnh lệnh - quy phạm quốc tế buộc phải tuân thủ, chỉ có thể bị thay thế bởi quy phạm khác có cùng tính chất, được các quốc gia thừa nhận và có hiệu lực pháp lí quốc tế cao nhất - PV), đó là nghiêm cấm việc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế theo quy định tại Điều 2 (khoản 4) của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Chính vì điểm xuất phát của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng các Quy phạm mệnh lệnh, thế nên sự chiếm hữu hiện nay tại của quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc không là không hợp lệ, kể cả khi người Trung Quốc đã ở đó và sử dụng nhiều biện pháp quản lí trong bao lâu đi chăng nữa.
Chính Trung Quốc cũng đã thừa nhận nguyên tắc trên trong một bản ghi nhớ vào ngày 12 tháng 5 năm 1988, khi Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã tuyên bố rằng sự xâm lược sẽ không bao giờ dẫn đến việc thiết lập chủ quyền. Từ góc độ pháp lý và lịch sử, tuyên bố của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa cho đến hiện nay là không có căn cứ. Việc Liu nhấn mạnh luận điểm “quần đảo Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc” là hoàn toàn sai.
Trung Quốc cố ý “bẻ cong” sự thật về công hàm 1958
Ông Nguyễn Xuân Thủy tại Indonesia
Ông Liu đã cố tình nói sai sự thật khi trích dẫn Công hàm ngày 14-9-1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, rằng thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc tại nhiều vùng, trong đó có quần đảo Hoàng Sa. Cụ thể là trong công thư, Thủ tướng Chính phủ đã không hề đề cập đến một từ ngữ nào về lãnh thổ của Trung Quốc, kể cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Thủ tướng chỉ ghi nhận và ủng hộ tuyên bố của lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc. Hơn nữa, thực tế việc Thủ tướng đã không đề cập đến các quần đảo này là hoàn toàn hợp lí, xét trong bối cảnh lịch sử bấy giờ: Những hòn đảo này đã và đang chịu sự quản lý của Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1956 (khi Pháp rút lui-PV) như đã đề cập trên đây.
Với tư cách một thành viên đã tham dự Hội nghị Geneva, Trung Quốc chắc chắn nhận thức được rằng theo Hiệp định Geneve 1954 về Việt Nam, phạm vi địa lý hành chính của Việt Nam đã được chia tại đường vĩ tuyến 17.
Hơn nữa, việc Trung Quốc hiện nay tuyên bố không có tranh chấp tại quần đảo Hoàng Sa là trái với những gì các nhà lãnh đạo của Trung Quốc đã nhìn nhận. Ví dụ, vào tháng 9-1975, Đặng Tiểu Bình, người sau này là Phó Thủ tướng Trung Quốc, đã nói với Bí thư Thứ nhất Trung ương Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn rằng việc Việt Nam và Trung Quốc đã có những quan điểm khác nhau về quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa sẽ được giải quyết thông qua đàm phán. Tuyên bố này được ghi nhận trong Bản Ghi nhớ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc vào ngày 12-5-1988.
Tuy nhiên, có một điểm mà ông Liu đã nói đúng, rằng: “Chúng ta không nên nghe câu chuyện từ một phía.” Tôi xem đây là một lời mời của ông Liu để tôi cung cấp cho độc giả về “phía còn lại” trong câu chuyện của tôi.
Đại sứ Nguyễn Xuân Thủy (Jakarta Post)
ĐẠI THẮNG (dịch và biên tập)