Phát biểu trong phiên thảo luận tại hội trường về kết quả giám sát chuyên đề việc thực hiện Nghị quyết 43/2022, đại biểu Vũ Thị Lưu Mai (đoàn Hà Nội) chia sẻ: Nhìn lại chặng đường đã qua, chúng ta thấy được sự chỉ đạo đúng đắn của Đảng, sự vào cuộc kịp thời của Quốc hội, sự quyết liệt của Chính phủ, sự cố gắng của mỗi người dân, doanh nghiệp. Những kết quả đạt được không thể phủ nhận và rất đáng trân trọng.
Có những điều có thể làm tốt hơn
Tuy nhiên, bà cũng cho rằng việc rút ra những bài học kinh nghiệm cho chặng đường tiếp theo là hết sức cần thiết. Đồng thời cũng là để trả lời cho câu hỏi: Nếu như trong tương lai, nếu như một lần nữa dịch bệnh xảy ra, liệu chúng ta có áp dụng những chính sách như chúng ta đã áp dụng hay không? Liệu chúng ta có tổ chức thực hiện như cách chúng ta đã tổ chức thực hiện hay không?
“Câu trả lời có lẽ là chưa hẳn chúng ta sẽ lặp lại, bởi có những điều chúng ta có thể làm tốt hơn” – bà Mai nhận định.
Nhấn mạnh đến tính kịp thời trong tổ chức thực hiện, nữ đại biểu Hà Nội cho rằng đây có lẽ là yêu cầu quan trọng nhất, xuyên suốt nghị quyết. Trong bối cảnh dịch bệnh, nghị quyết quy định rất rõ, các giải pháp phải kịp thời, các chính sách phải khẩn trương và nguồn vốn phải hấp thụ được ngay.
Tuy nhiên, bên cạnh nhiều kết quả đạt được vẫn có một số nhiệm vụ chưa kịp hoàn thành. Điều này cũng làm giảm tính thời sự, ảnh hưởng đến tính ứng phó kịp thời của một số chính sách.
Bà dẫn chứng gói giải ngân vốn kết cấu hạ tầng, đến nay mặc dù Bộ KH&ĐT cũng quyết liệt đôn đốc nhưng mới giải ngân được 61%. Gói hỗ trợ lãi suất hay 2% thông qua ngân hàng thương mại chỉ đạt 3,05%. Hay gói đào tạo dạy nghề đạt được 37% và hỗ trợ tiền thuê nhà đạt được 55,7%...
Về cách lựa chọn chính sách và tính khả thi của một số chính sách, bà Mai cho rằng bên cạnh rất nhiều chính sách hợp lý thì cũng có những chính sách đến nay chưa thực sự đi vào cuộc sống. Có thể kể đến như chính sách hỗ trợ thông qua ngân hàng thương mại, chính sách hỗ trợ vốn của quỹ phát triển du lịch hay việc sử dụng quỹ viễn thông công ích.
“Nếu có thể làm lại, cá nhân tôi cho rằng rất cần có trọng tâm, trọng điểm. Chúng ta không cần nhiều chính sách nhưng cần nâng cao tính khả thi và đặc biệt là cần đứng từ góc độ người dân để hiểu hơn người dân thực sự cần gì, doanh nghiệp thực sự muốn gì” – bà Vũ Thị Lưu Mai nhấn mạnh.
Một vấn đề khác là cách đánh giá hiệu quả của toàn bộ chương trình. Để thấy được tính hiệu quả của các chính sách thì rất cần làm phép so sánh giữa nguồn lực bỏ ra và kết quả mang lại (bao gồm nguồn lực vật chất và nguồn lực con người, bao gồm kết quả vô hình và kết quả hữu hình).
Trong Nghị quyết quy định rất rõ chỉ riêng kết cấu hạ tầng được phân bổ 176.000 tỉ đồng, giảm thuế suất 2% thuế VAT là gần 44.600 tỉ. Trong đó, riêng năm 2022, để giảm thuế VAT thì ngân sách nhà nước đã giảm thu gần 41.200 tỉ đồng. Như vậy nguồn lực ngân sách đầu tư là hiện hữu và không nhỏ. Tuy nhiên, bên cạnh rất nhiều kết quả chúng ta nhìn thấy, cũng còn những nhiệm vụ chưa rõ ràng về hiệu quả, kết quả đầu ra cũng chưa rõ ràng.
Trong báo cáo gửi Đoàn giám sát, Chính phủ đề xuất cho phép kéo dài thời hạn giải ngân các dự án thuộc chương trình phục hồi đến hết 2025. Hiện nay, trong số 272 dự án thuộc chương trình, có đến 107 dự án có tỉ lệ giải ngân dưới 50% và nếu không cho phép kéo dài sẽ dẫn đến dở dang, lãng phí.
“Đây cũng là bài toán cần xem xét thận trọng” – bà Vũ Thị Lưu Mai nói và cho rằng đối với một số dự án có hiệu quả giải ngân thấp, chưa thực hiện nghiêm các quy định liên quan thì có thể hủy dự toán, đồng thời làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân liên quan.
Nuối tiếc cho những điểm chưa trọn vẹn.
Về các cơ chế đặc thù, bà Vũ Thị Lưu Mai cho rằng Nghị quyết 43 ra đời trong một bối cảnh đặc biệt nên cũng có những chính sách đặc biệt. Qua giám sát cho thấy nhiều chính sách đã phát huy tác dụng tốt, có thể nhân rộng để áp dụng rộng rãi.
Đơn cử như đơn giản hóa thủ tục trong khai thác mỏ hay là đơn giản hóa thủ tục chuyển đổi đất rừng đối với các dự án quan trọng quốc gia.
Tuy nhiên, riêng với cơ chế chỉ định thầu, bà Mai cho rằng chỉ nên áp dụng trong bối cảnh dịch bệnh để đảm bảo tính kịp thời. Còn trong bối cảnh bình thường thì cần áp dụng quy định chung của pháp luật về đấu thầu để đảm bảo tính công khai, minh bạch, không cho phép lợi dụng pháp luật.
Còn về việc phân cấp cho các địa phương làm cơ quan chủ quản đối với các dự án tuyến đường cao tốc, qua giám sát cho thấy có nhiều địa phương đã làm rất tốt nhưng cũng có những địa phương còn lúng túng.
Đại biểu Mai cho rằng nếu áp dụng, nhân rộng mô hình này thì cần chú ý hai vấn đề. Cụ thể, cần nâng cao năng lực thực hiện của các địa phương; đồng thời quy định rõ hơn về trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu.
Đề cập đến các dự án quan trọng quốc gia, bà nhìn nhận đây là một điểm nhấn trong bức tranh về kết cấu hạ tầng, thể hiện sự quyết tâm và những kết quả rất đáng trân trọng của Chính phủ.
Tuy nhiên, với việc huy động nguồn lực ngoài ngân sách đối với một số dự án, ban đầu dự kiến đầu tư theo hình thức PPP nhưng cuối cùng vẫn phải chuyển sang đầu tư từ nguồn lực đầu tư công.
Chỉ ra các nguyên nhân, bà Vũ Thị Lưu Mai cho rằng bên cạnh các nguyên nhân từ thể chế, chính sách thì còn do ý muốn chủ quan của người thực hiện.
“Chỉ khi chúng ta thực sự mong muốn thì dù khó khăn vẫn có thể tìm ra giải pháp để đưa chính sách đi vào cuộc sống. Như cách chúng ta vẫn nói ‘nếu muốn thì sẽ tìm ra cách’” – bà nhấn mạnh và cho rằng Nghị quyết 43 đến nay đã đi đến chặng đường cuối cùng. Chúng ta trân trọng những kết quả đạt được nhưng cũng có những điều nuối tiếc cho những điểm chưa trọn vẹn.
“Dù vậy, với tất cả những trải nghiệm, với tất cả những bài học đúc rút, chúng ta vẫn có quyền tin rằng sẽ làm tốt hơn ở chặng đường tiếp theo” – bà chia sẻ.
Nhiều dự án phải điều chỉnh chủ trương nhiều lần
Đại biểu Đặng Thị Bích Ngọc (đoàn Hòa Bình) cho rằng công tác xây dựng đề xuất danh mục dự án đầu tư từ nguồn vốn chương trình ở một số bộ, ngành, địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra; việc chuẩn bị hoàn thiện thủ tục đầu tư nhiều dự án chậm, có dự án điều chỉnh chủ trương đầu tư nhiều lần.
“Cá biệt, có những dự án đến cuối năm 2023 khi kết thúc thời gian thực hiện nghị quyết vẫn chưa phê duyệt được chủ trương đầu tư hoặc phải điều chỉnh chủ trương đầu tư nhiều lần” – bà Ngọc nêu thực trạng.
Theo đề nghị của Chính phủ, Quốc hội đã cho phép kéo dài thời gian thực hiện giải ngân các dự án sử dụng vốn của chương trình đến ngày 31-12-2024. Tuy nhiên, qua giám sát thấy rằng nhiều dự án không thể hoàn thành thực hiện và giải ngân trong năm 2024 cần tiếp tục gia hạn, một số chính sách thực hiện không đạt mục tiêu đề ra…
Từ đó, đại biểu đoàn Hòa Bình đề nghị Ủy ban thường vụ quốc hội chỉ đạo đoàn giám sát rà soát, hoàn thiện một số quy định để tránh trùng lắp nội dung của Nghị quyết 43 với một số nghị quyết quan trọng khác.
Quốc hội, Chính phủ cùng các địa phương cũng cần khẩn trương đánh giá tình hình, khả năng thực hiện các dự án thuộc Chương trình được phép kéo dài đến hết 31-12 trong năm 2024, khả năng cân đối vốn thực hiện trong các năm tiếp theo nhằm hoàn thành dự án.
Đối với các dự án đang triển khai thực hiện đề nghị có các giải pháp quyết liệt để đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án và xem xét cho phép kéo dài thời gian thực hiện nguồn vốn chương trình đến hết năm 2025