Làm gì khi bị chiếm giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?

TAND Tối cao vừa ban hành Công văn 02/TANDTC-PC ngày 2-8, giải đáp một số vướng mắc khi xét xử, trong đó có nêu một số vấn đề trong giải quyết các vụ án dân sự.
Một vướng mắc được nhiều tòa án nêu ra là tòa có được thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện về việc buộc người chiếm giữ trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) không.

Theo TAND Tối cao, nếu kiện đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
bị chiếm giữ thì tòa sẽ thụ lý. Ảnh: NGÂN NGA

Bởi lẽ theo Công văn 141/TANDTC-KHXX ngày 21-9-2011 của TAND Tối cao, về thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại GCN quyền sở hữu tài sản thì GCNQSDĐ không phải là giấy tờ có giá, nếu có yêu cầu tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại các giấy tờ này thì tòa không thụ lý giải quyết.
Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 4 BLTTDS 2015 thì “tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật áp dụng”.
Về vấn đề này, TAND Tối cao giải đáp:
Khoản 8 Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”.
Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005 quy định giấy tờ có giá là: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc.
Khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.
Mục 1 Phần I Công văn 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016 của TAND Tối cao giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự hướng dẫn: “GCNQSDĐ là quyết định hành chính; nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính”.
Theo đó, GCNQSDĐ là quyết định hành chính, không phải là “bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ” cho nên không phải là giấy tờ có giá. Do vậy, hướng dẫn tại Công văn 141/TANDTC-KHXX xác định GCNQSDĐ không phải là giấy tờ có giá vẫn phù hợp với Bộ luật Dân sự 2015 và các quy định pháp luật khác đang có hiệu lực.
Điều 164 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật việc thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Như vậy, nếu có yêu cầu tòa án giải quyết buộc người chiếm giữ trả lại GCNQSDĐ, chấm dứt hành vi cản trở thực hiện quyền của người sử dụng đất thì TAND sẽ thụ lý giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 26 BLTTDS 2015.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm