TAND quận Gò Vấp (TP.HCM) vừa xử sơ thẩm vụ án hình sự tội vi phạm chế độ một vợ một chồng. Bị cáo trong vụ án là ông VT (35 tuổi, trú quận Tân Bình, làm trong doanh nghiệp), bị truy tố theo khoản 1 Điều 182 BLHS 2015; sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đây là tội danh mới chỉ được quy định trong BLHS 2015 và cũng là tội trên thực tế hiếm khi cơ quan tố tụng các địa phương khởi tố, truy tố và xét xử.
Bị vợ tố cáo cùng chứng cứ là hình ảnh
Theo hồ sơ, ông T. kết hôn cùng chị NTK từ năm 2012 và chung sống tại quận Tân Bình, có một con riêng sinh năm 2015. Trong thời gian chung sống, giữa T. và vợ xảy ra nhiều mâu thuẫn dẫn tới hai người luôn có khoảng cách trong tình cảm và quan hệ vợ chồng.
Đến năm 2014, ông T. nảy sinh tình cảm với một phụ nữ tên PY (sống tại quận Gò Vấp) nhưng giấu chị Y. chuyện mình đã có gia đình. Tới đầu năm 2015, khi chị Y. mang thai thì ông T. mới thú nhận đã có vợ, chưa ly hôn.
Bị chị Y. yêu cầu chia tay và nói sẽ phá thai, ông T. không đồng ý và hứa sẽ lo cho hai mẹ con chị Y. có cuộc sống chu đáo. Cuối năm 2014, chị Y. sinh con và trong khoảng thời gian hai năm sau đó ông T. vừa sống với vợ, vừa sống chung như vợ chồng với chị Y.
Đến tháng 7-2017, chị K. là vợ của bị cáo phát hiện chồng mình có bồ và con riêng nên yêu cầu ông T. chấm dứt quan hệ với chị Y. Do thất vọng về chồng nên sau đó chị K. đã bỏ về quê ở miền Tây sinh sống. Từ thời gian này, ông T. không những không chấm dứt mối quan hệ sai trái mà còn thường xuyên đến ở với chị Y.
Biết chồng không thay đổi, chị K. làm đơn tố cáo ra công an yêu cầu xử lý hình sự ông T. theo quy định của pháp luật. Kèm theo đơn, chị K. có giao nộp một USB chứa những hình ảnh liên quan đến hành vi của ông T. Đồng thời, chị K. cũng nộp đơn khởi kiện dân sự yêu cầu ly hôn với ông T. tại TAND quận Tân Bình. Cuối năm 2019, tòa quận này đã ra quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn giữa hai người.
Bị cáo thành khẩn, hối lỗi
Đầu năm 2020, Cơ quan CSĐT Công an quận Gò Vấp đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với ông T. và được VKS cùng cấp phê chuẩn.
Cáo trạng của VKSND quận Gò Vấp sau đó xác định: Mặc dù đã kết hôn hợp pháp với chị K. nhưng ông T. vẫn sống chung như vợ chồng với chị Y. và có một con chung dẫn đến hôn nhân đổ vỡ.
Hành vi phạm tội của ông T. đã xâm phạm đến nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được quy định trong Hiến pháp và Luật Hôn nhân và Gia đình, ảnh hưởng đến trật tự xã hội, cần phải xử lý nghiêm.
Đối với chị Y., khi chung sống với ông T. chị không biết việc ông này đã có vợ nên không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cáo trạng nêu: “Quá trình điều tra, ông T. có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, do đó được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS”.
Tại phiên xử sơ thẩm, bị cáo T. lý giải chuyện chạy theo chị Y. là do tình cảm vợ chồng có mâu thuẫn và không được giải quyết triệt để. Bị cáo thừa nhận đã gây tổn thất tinh thần cho cả hai người phụ nữ và bày tỏ sự hối lỗi.
Luật sư bào chữa cho bị cáo không có mặt tại tòa nhưng gửi bài bào chữa và thẩm phán chủ tọa công bố công khai tại phiên tòa. Theo đó, luật sư cho rằng hành vi của bị cáo T. là trái quy định pháp luật nhưng hiện nay ông T. đã ly hôn với chị K. và có trách nhiệm với con chung sau khi ly hôn. Vì thế, luật sư đề nghị HĐXX xem xét các tình tiết giảm nhẹ để quyết định mức hình phạt nhẹ nhất cho ông T.
Đại diện VKS giữ quyền công tố tại tòa đề nghị HĐXX phạt bị cáo mức án 10-12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Tuy nhiên, sau khi nghị án, tòa tuyên phạt ông T. một năm cải tạo không giam giữ, giao cho địa phương nơi người này ở quản lý.
Trao đổi với PV bên lề phiên tòa, một cán bộ thường theo dõi các phiên xét xử hình sự cho biết đây là một án hiếm gặp. Hành vi như ông T. đã thực hiện trên thực tế xảy ra nhiều nhưng hiếm khi bị xử lý hình sự, nhưng qua vụ án này sẽ là bài học cho nhiều người.
Tội vi phạm chế độ một vợ một chồng 1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm: a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; b) Đã có quyết định của tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó. (Trích Điều 182 BLHS 2015; sửa đổi năm 2017) |