TAND tỉnh Bến Tre vừa mở lại phiên tòa phúc thẩm vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị Oanh Em, ông Phạm Văn Hăn và bị đơn là bà Nguyễn Thị Bạch Yến, ông Võ Văn Rỡ.
Tại phiên tòa, đại diện VKS đề nghị hủy án sơ thẩm vì việc tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chưa xem xét toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; đối với phần đất đang tranh chấp, bà Yến là người sử dụng canh tác từ trước đến nay nên bà là đối tượng được xem xét cấp quyền sử dụng đất theo quy định.
HĐXX đã quyết định tạm ngừng phiên tòa để thu thập thêm chứng cứ về nguồn gốc đất để làm cơ sở xem xét, giải quyết vụ án toàn diện, khách quan.
Kháng cáo vì "Giấy xác nhận chia đất cho con chưa được xem xét"
Theo nội dung vụ án, tháng 3-2008, bà Oanh Em và ông Phạm Văn Hăn cùng nhận chuyển nhượng mỗi người khoảng 2 ha đất tại xã Đại Hòa Lộc, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre từ bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết và bà Nguyễn Thị Lâm (đều là chị ruột của bị đơn là bà Yến) và được UBND huyện Bình Đại cấp chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo nguyên đơn, từ năm 2012, bị đơn đã đưa máy móc vào khu vực trước mặt tiền đất của nguyên đơn đào đất độ sâu 1,5 m và lấn ngang toàn bộ mặt tiền khoảng 210 m vào sâu khoảng 30 m để trồng cây đước làm hàng rào che chắn không cho các nguyên đơn vào sử dụng đất.
Từ đó, nguyên đơn đi kiện để đòi bị đơn trả lại diện tích 5.984 m2, di dời các cây đước ra khỏi đất.
Xử sơ thẩm vào tháng 2-2024, TAND huyện Bình Đại tuyên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của người liên quan (UBND xã và UBND huyện Bình Đại).
Cho rằng bản án sơ thẩm chưa xem xét đến chứng cứ là giấy xác nhận chia đất cho các con của bà Nguyễn Thị Lời (mẹ bà Yến, bà Lâm, bà Tuyết), những nội dung mà người liên quan đã nêu ra; bị đơn kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm, bị đơn trình bày rằng phần diện tích đất đang tranh chấp là phần đất bà được cha mẹ cho. Phần đất của bà nằm trong phần diện tích đất mà 2 người chị của bà đã chuyển nhượng cho 2 nguyên đơn; phần đất đã chuyển nhượng này cũng có nguồn gốc từ mẹ bà, trước khi chết đã chia đất cho 3 người con, mỗi người 2 mẫu đất, từ năm 1989.
Cũng theo bị đơn, trước thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 2 nguyên đơn thì phần diện tích đất từ mí Huyện lộ 40 (HL40) vào 20 m do ông bà sử dụng trồng đước, suốt 35 năm nay không ai tranh chấp cản trở; còn việc chuyển nhượng của 2 nguyên đơn với gia đình 2 người chị chỉ diễn ra trên giấy, chưa bàn giao trên thực tế.
Theo Điều 7 Hợp đồng chuyển nhượng đất giữa 2 nguyên đơn và 2 người chị của bị đơn thì thời điểm chuyển nhượng đất, các bên đã biết và thừa nhận phần diện tích đất cặp HL40 (từ mép HL40 vào sâu 20 m) không thuộc quyền sở hữu của vợ chồng bà Tuyết và vợ chồng bà Lâm (người chuyển nhượng). Do đó, người chuyển nhượng không có quyền chuyển nhượng.
UBND huyện đề nghị hủy một phần giấy chứng nhận đã cấp cho nguyên đơn
Về phía người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, UBND huyện Bình Đại xác nhận, trước đây khi thi công HL40 nhà nước có đào hai bên để đắp lộ nên dọc hai bên HL40 hình thành kênh thủy lợi.
Việc cấp đất cho bà Lâm và bà Tuyết trước đây chừa ra phần đất và kênh cặp HL40 vào sâu 20 m, tuy nhiên sau này khi làm thủ tục chuyển nhượng cho ông Hăn và bà Oanh Em thì lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đấu vô HL40 bao gồm đất công cộng (kênh thủy lợi). Việc cấp giấy chứng nhận như vậy là sai quy định của luật đất đai nên cần hủy một phần giấy chứng nhận đã cấp để điều chỉnh lại.
Trước đó, ngày 5-10-2017 UBND huyện Bình Đại có chỉ đạo xử lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp không đúng quy định. Trong đó UBND huyện giao cho Phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho UBND huyện thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp cho ông Hăn và bà Oanh Em.
VKS đề nghị hủy án sơ thẩm
Phát biểu quan điểm giải quyết vụ án, đại diện VKSND tỉnh Bến Tre nêu rằng, phần đất đang tranh chấp do bà Yến canh tác kể từ khi được mẹ là bà Lời cho đất. Bà Yến sử dụng phần đất này được những người làm chứng có mặt tại tòa xác nhận, tuy nhiên phần đất này chưa được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Yến. Hai người chị của bà Yến không sử dụng phần đất này.
Ngày 4-5-2000, bà Lâm được UBND huyện Bình Đại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 20.973 m2. Ngày 21-5-2004, bà Tuyết được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích 21.865 m2. Các thửa đất này đều có phần đất giáp bề mặt phần đất do UBND xã Đại Hòa Lộc quản lý.
Ngày 27-3-2008 vợ chồng bà Lâm, bà Tuyết chuyển nhượng các thửa đất đất trên cho ông Hăn và bà Oanh Em. Diện tích các thửa đất này đi theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Lâm, bà Tuyết trước đó mà không được đo đạc lại.
Khi ông Hăn và bà Oanh Em được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo số liệu đo đạc chính quy nên được cấp luôn phần đất do UBND xã Đại Hòa Lộc quản lý và diện tích thửa mới được cấp tăng lên.
Cụ thể thửa có diện tích 20.973 m2 thành 2 thửa mới có tổng diện 22.038 m2. Thửa có diện tích 21.865 m2 thành thửa mới có diện tích 22.074 m2.
VKS cho rằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp cho ông Hăn và bà Oanh Em là chưa đúng quy định pháp luật vì đã bao trùm diện tích đất sử dụng vào mục đích công cộng cặp HL40 do UBND xã Đại Hòa Lộc quản lý nên cần phải hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Lâm, bà Tuyết cho ông Hăn và bà Oanh Em.
Về phần đất đang tranh chấp, bà Yến là người sử dụng canh tác từ trước đến nay nên bà là đối tượng được xem xét hợp thức quyền sử dụng đất theo quy định.
VKS nêu quan điểm, việc bản án sơ thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hăn và bà Oanh Em là chưa xem xét toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên cần hủy án sơ thẩm giao về cấp sơ thẩm giải quyết lại theo đúng quy định.
VKS đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bà Yến, ông Rỡ; hủy bản án sơ thẩm giao TAND huyện Bình Đại xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
Bị đơn sử dụng đất ổn định 35 năm nay
Theo Giấy xác nhận về việc xác định chia đất đai cho con ruột ngày 4-12-2012, Biên bản về việc chia đất cho con của bà Lời thì phần diện tích đất mà bà Lời chia cho 3 người con gồm 2 thửa đất liền kề nhau, trong đó:
- Thửa 01: Thửa từ lộ vào trong đất là một thửa. Từ lộ đo vào 20 m (chân lộ)
- Thửa 02: Thừa nhà nước trả lại (có diện tích khoảng sáu mẫu) có bờ ranh từ lộ vào 20 m.
Trong đó, Thửa 02 với diện tích khoảng sáu mẫu được chia đều cho 3 người con (mỗi người được khoảng 2 mẫu). Đối với thửa 01, bà Lời tiếp tục sử dụng, sau này mới cho bà Yến. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 31-7-2013, bà Lời đã tiếp tục khẳng định nội dung này.
Như vậy, phần diện tích đất mà bà Lâm, bà Tuyết được bà Lời chia cho đều không tiếp giáp với HL40.
Và tại thời điểm bà Lời chia đất cho 3 người con thì HL40 chưa hình thành chỉ là con đường mòn dẫn vào đất của dân. Giáp phần đất chia cho bà Tuyết, bà Lâm tính từ đường mòn đi vào 20 m, bà Lời cho bà Yến toàn quyền sử dụng; bà Yến, ông Rỡ quản lý, sử dụng phần đất này trồng cây đước từ năm 1989.
Đến năm 2008, UBND xã Đại Hòa Lộc giải tỏa phần đất này để làm đường ống nước ngọt từ Ba Lai đến xã Thới Thuận. Khoảng năm 1992, nhà nước đào đất đắp bờ đê bao nước ngọt dọc theo đường mòn trên mới hình thành con mương dọc bờ đê này. Sau này bờ đê đã hình thành nên HL40.