Chiến sĩ hải quân nhân dân Việt Nam đang đứng gác ở Trường Sa. |
Trong bài viết đã đăng trên tạp chí “Prospect” của Anh hôm 10/7 vừa qua, tác giả Bill Hayton đã mở đầu: “Cả nước Trung Quốc đã bị tuyên truyền một cách rất sai trái rằng người Trung Quốc đã phát hiện và đặt tên các đảo ở Biển Đông”.
Theo Bill Hayton, Biển Đông là nơi Trung Quốc đang ra sức đẩy mạnh những tham vọng bá quyền của mình trong bối cảnh các nước châu Á đang hoang mang trước “sức mạnh Mỹ” và cam kết của Mỹ đối với những đồng minh trong khu vực.
Trong bối cảnh đó, Trung Quốc đã đột ngột từ bỏ chiêu bài giả vờ "trỗi dậy hòa bình" và quay sang ủng hộ “ngoại giao pháo hạm”. Tàu Hải cảnh và tàu vũ trang của Trung Quốc đã nhiều lần đâm va, tấn công các tàu của Việt Nam, phong tỏa tiền đồn của Philippines (bãi Scaborough), quấy rối và ngăn cản các tàu thăm dò dầu khí của Malaysia, đe dọa các tàu Indonesia đang làm nhiệm vụ bảo vệ nguồn thủy sản trên Biển Đông. Đáp lại, tất cả các quốc gia (ở Đông Nam Á) đang mua vũ khí nhiều hơn và cải thiện quan hệ quân sự với các chính phủ khác, chủ yếu là với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Australia…
Gốc gác của tất cả các rắc rối này là những gì Bắc Kinh gọi là "bằng chứng lịch sử không thể chối cãi" mà họ dùng để đòi chủ quyền đối với hơn 80% diện tích Biển Đông thông qua đường 9 đoạn (đường lưỡi bò).
Vấn đề quan trọng hơn là Bắc Kinh đã không hề có “bằng chứng đáng tin cậy” để hỗ trợ nó ngoài việc bịa ra những thứ rất “tầm phào và mơ hồ”. Tuy nhiên, điều này vẫn là động lực để họ đe dọa hòa bình và an ninh ở châu Á.
Theo bài viết của Bill Hayton, Biển Đông có hai nhóm đảo chính, trong đó chỉ có một số rất ít là những hòn đảo thực sự, phần lớn chỉ là các rạn san hô, bãi cát hoặc đá. Ở phía Bắc là quần đảo Hoàng Sa (của Việt Nam nhưng đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm từ năm 1974 –PV). Ở phía nam là quần đảo Trường Sa. Hầu hết các hòn đảo hoang vắng đều có tên tiếng Anh (trên các bản đồ do người phương Tây vẽ) được đặt theo tên các tàu hoặc thuyền trưởng đã từng đi qua đây trong quá khứ. Ví dụ như tên quần đảo Trường Sa trong tiếng Anh được đặt theo tên thuyền trưởng Richard Spartly - người đã đi qua quần đảo này năm 1843 hay tàu HMS Iroquois (của Anh) đã đặt tên cho bãi san hô Iroquois Reef trong công việc khảo sát trong năm 1920…
Năm 1935, lần đầu tiên Trung Quốc thể hiện âm mưu độc chiếm Biển Đông và các hòn đảo ở đó bằng việc một Ủy ban của chính phủ Trung Quốc yêu cầu đặt tên bằng tiếng Trung Quốc cho tất cả các đảo. Trong quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, Trung Quốc đã cho đổi tên Antelope Reef trở thành bãi Linh Dương... Điểm đặc biệt là Trung Quốc khi đó không hề có bản đồ của khu vực này và Ủy ban của Trung Quốc chỉ đơn giản là sao chép các bản đồ của Anh, thậm chí sao chép nguyên xi tất cả các lỗi mà những nhà bản đồ phương Tây đã chú thích sai do không hiểu biết đầy đủ về khu vực.
Các tên gọi này sau đó cũng được sửa đổi hai lần. Ví dụ, bãi Scarborough được đặt theo tên một tàu của Anh vào năm 1748, ban đầu được phiên âm là Si-ge-ba-luo vào năm 1935, sau đó chính quyền Tưởng Giới Thạch đổi tên vào năm 1947 và cuối cùng, Trung Quốc đặt tên là bãi Hoàng Nham vào năm 1983.
Đảo Trường Sa lớn nằm trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam |
Nhưng chính quyền Trung Quốc dường như đã dối trá hoàn toàn về điều này. Các tuyên bố “có chủ quyền không thể tranh cãi" của Trung Quốc trên Biển Đông thường bắt đầu bằng cụm từ "người Trung Quốc là những người đầu tiên phát hiện và đặt tên cho quần đảo Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam)" trong khi thực tế họ chỉ sao chép các tên từ tiếng Anh. Ngay cả từ "Nam Sa" (có nghĩa là "bãi cát phía Nam") đã rất nhiều lần bị Trung Quốc “di chuyển” đến những địa điểm khác nhau trên bản đồ. Năm 1935, tên này được sử dụng để mô tả các khu vực biển nông được gọi bằng tiếng Anh là "Macclesfield Bank" (ở gần sát quần đảo Hoàng Sa). Năm 1947, cái tên Nam Sa đã được chuyển về phía nam trên bản đồ Trung Quốc để chỉ quần đảo Trường Sa. Điều này chứng tỏ Trung Quốc khi đó gần như không biết gì về Biển Đông.
Sẽ tốn khá nhiều trang giấy để phản bác một cách chi tiết mỗi “bằng chứng lịch sử” do phía Trung Quốc bịa đặt ra nhưng Trung Quốc và thế giới không thể phủ nhận rằng “không có bằng chứng khảo cổ học cho thấy có tàu nào của Trung Quốc di chuyển trên vùng biển này trước thế kỷ 10”. Cho đến thời điểm đó tất cả các giao dịch và thăm dò được thực hiện bởi tàu của người Malay, Ấn Độ và Ả Rập. Họ có thể, theo thời gian, đã tiến hành cập bến cảng của Trung Quốc để buôn bán.
Những chuyến đi còn nhiều tranh cãi của Trịnh Hòa - "đô đốc thái giám" của Trung Quốc cũng chỉ kéo dài trong khoảng 30 năm, cho đến những năm 1430. Sau đó, nhà nước phong kiến Trung Quốc không bao giờ đến vùng biển này một lần nữa cho đến tận cuối Chiến tranh thế giới thứ hai.
Lần đầu tiên, một quan chức chính phủ Trung Quốc đặt chân lên quần đảo Trường Sa là ngày 12/12/1946. Một phái đoàn cấp tỉnh của Trung Quốc đã đến quần đảo Hoàng Sa một vài thập kỷ trước đó, vào ngày 06/6/1909, trong một cuộc thám hiểm kéo dài chỉ một ngày bằng con tàu của một thuyền trưởng người Đức mượn từ công ty kinh doanh Carlowitz. Tất cả những lần “đặt chân” này đều chỉ là “đi ké” các tàu của phương Tây chứ người Trung Quốc không đủ khả năng.
Đây là những bằng chứng lịch sử được giới học giả quốc tế thừa nhận từ lâu. Nhưng bằng các chiến dịch tuyên truyền dối trá của mình, chính quyền Trung Quốc đã thuyết phục được người dân của họ tin là giới học giả quốc tế đang “âm mưu phá hoại và chia cắt Trung Quốc”.
Nhà địa lý William Callahan và những người khác đã chỉ ra rằng, việc tuyên bố lãnh thổ rộng lớn một cách bừa bãi là một phần của cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của nước ngoài của Bắc Kinh. Trung Quốc đã cố tình thổi phồng chủ nghĩa dân tộc và tạo ra “nỗi nhục vì bị xâm phạm lãnh thổ” để kích động người dân trong nước. Từ những năm 1900 trở đi, các nhà địa lý của Trung Quốc như Meichu, một trong những người sáng lập của Viện Địa lý Xã hội Trung Quốc đã bắt đầu vẽ bản đồ “láo” để công chúng nước này thấy bao nhiêu lãnh thổ của họ đã bị các đế quốc cướp mất.
Những "bản đồ về sự sỉ nhục quốc gia" cho rằng lãnh thổ hợp pháp của Trung Quốc bao gồm tất cả các chư hầu trước kia đã từng “quy phục” hoàng đế Trung Hoa. Họ cho rằng lãnh thổ của Trung Quốc bao gồm cả bán đảo Triều Tiên, một khu vực rộng lớn của Nga, Trung Á, Hymalaya và nước ở Đông Nam Á.
Những bản đồ bịa đặt này được vẽ để chứng minh sự tương phản với phần bị “teo lại” của đất nước Trung Quốc ngày nay. Đây cũng là một trong những lý do của sự ra đời đường "chữ U" hay "đường 9 đoạn" (đường lưỡi bò) bao trọn 80% diện tích Biển Đông và tất cả các đảo trong đó. Bắc Kinh còn tận dụng những sự hiểu biết sai lệch của các nhà bản đồ và hàng hải phương Tây do không hiểu biết về lịch sử Đông Nam Á, để coi đó là cơ sở để khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với vùng Biển Đông.
Không thể phủ nhận, trong lịch sử, Trung Quốc đã từng bị các đế quốc đô hộ và tàn phá nhưng việc cố tình tạo dựng lên một “quốc gia bị sỉ nhục” bằng cách diễn giải sai lịch sử là điều khó có thể chấp nhận. Chính điều này và mối đe dọa của chủ nghĩa dân tộc tự phát đã khiến cho các tranh chấp trên Biển Đông trở nên rất nguy hiểm. Nhưng ngày nay, chính phủ Trung Quốc không thể thừa nhận gian dối của nó vì ngay sau khi thừa nhận dối trá, chính quyền Bắc Kinh sẽ bị dân chúng nước này tẩy chay.
Không có sự lựa chọn thay thế dễ dàng để giải quyết xung đột trong Biển Đông. Không bên nào muốn kích động một cuộc chiến tranh nhưng không bên nào sẵn sàng giảm bớt căng thẳng bằng cách điều hòa chủ quyền lãnh thổ. Một số quan chức Trung Quốc đã nhận ra sự vô lý của tuyên bố “đường lưỡi bò”. Nhưng chính các quan chức này nói rằng, họ không thể kiến nghị sửa đổi bởi lý do là những lời chỉ trích trong nước nổi lên vô cùng mạnh. Làm thế nào để người dân Trung Quốc có thể có một cái nhìn khác về lịch sử của Biển Đông khi mà Trung Quốc vẫn tiếp tục dối trá như hiện nay?
Có lẽ là một câu trả lời nằm ở Đài Loan. Các cơ hội của một cuộc tranh luận tự do hơn về lịch sử Trung Quốc ở Đài Loan lớn hơn nhiều so với đại lục. Đã có một số học giả "bất đồng chính kiến" xem xét lại các khía cạnh của lịch sử thế kỷ 20. Đài Loan cũng là nơi lưu trữ các tài liệu đầu tiên của quá trình “vẽ ra đường chữ U". Một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng và cơi mở các tài liệu ở Đài Loan mới có thể thuyết phục dư luận phải xem lại “những huyền thoại dân tộc” bị xuyên tạc từ lâu nay.
"Chìa khóa cho một tương lai hòa bình ở châu Á là lịch sử phải được diễn giải một cách trung thực", tác giả Bill Hayton kết luận.
Theo Lương Minh/vietnamplus