Bước ngoặt trong hành trình sáng tác của Sương Nguyệt Minh

Tập truyện ngắn "Dị hương" của nhà văn Sương Nguyệt Minh ngay từ khi ra đời đã tạo được dư luận xã hội rộng rãi, những khen chê khác nhau. Và khi "Dị hương" được Giải thưởng văn học của Hội Nhà văn năm 2010 thì lại một lần nữa tạo nên cơn sóng dư luận.

Người viết bài này thiết nghĩ, một tác phẩm ra đời, công chúng ồn ào bàn luận, khen chê là chuyện thường tình. Và cuối cùng thì chỉ tác phẩm là có làm nên nhà văn và bảo vệ nhà văn được hay không mà thôi.

Bước qua chính mình, tạo lập phong cách khác trong văn chương là một việc làm không dễ. Xưa nay mỗi người một kiểu: Người viết ám ảnh, người viết dịu dàng, có người lại viết tưng tửng. Sương Nguyệt Minh cũng thế, ông sống và làm việc trong môi trường Quân đội. Ông viết về những mất mát hy sinh trong chiến tranh và nông thôn vốn rất quen thuộc. 

Ông có nhiều truyện ngắn mượt mà nhưng ám ảnh về những con người bỏ quê ra chốn thị thành, đến khi "chồn chân mỏi gối" lại quay về cố hương. Câu văn trữ tình, nhưng thân phận chìm nổi, những lời ăn tiếng nói, phong tục tập quán của thôn quê, ông bê vào văn chương một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn. Vậy là đã có một nhà văn Sương Nguyệt Minh của văn chương "nhà quê"?

Với tập truyện ngắn "Dị hương", ông Đại tá - nhà văn Sương Nguyệt Minh lại kể những câu chuyện mới về thân phận con người trải qua đầy đủ hỉ, nộ, ái, ố, rất đời thường. Từ anh đạo diễn phim "Đêm mùa hạ tuyết rơi" đến một cô gái mang hai dòng máu Việt Nam - Campuchia trong "Bên dòng Tonle Sap", người đàn bà chủ lò mổ trâu trong "Mùa trâu ăn sương", đến bậc kỳ nhân Nguyễn Ánh, cành vàng lá ngọc là Công chúa Ngọc Bình trong "Dị hương". Hoặc các nhân vật hư thực, huyền ảo giống người lại giống ma ở "Đồi con gái"… Những bước chân của nhân vật trong "Dị hương" không phải mòn mỏi, tù túng trong các không gian chật hẹp mà đã bước vào không gian nghệ thuật rộng lớn. Họ không lẩn quẩn, bó hẹp trong nhà, trong thôn xóm hay quanh quẩn nơi thành phố, mà ngòi bút của Sương Nguyệt Minh đã dẫn họ đi ra phố thị, đi ngược chiều thời gian về lịch sử xa xăm.

 
Nhà văn Sương Nguyệt Minh và bìa tập truyện ngắn của anh.

Cảm hứng nghệ thuật trước đây của Sương Nguyệt Minh không ngoài những gì cụ thể của làng quê, của chiến tranh: Cây đa, bến nước, sân đình… và những người con trai khoác balô vào chiến trường đánh giặc; những người phụ nữ ở lại hậu phương "vững tay cày" bảo vệ quê hương, chờ chồng, chờ người yêu trở về… luôn là các hình ảnh nghệ thuật quen thuộc của ông và của văn học Việt Nam một thời. Đến "Dị hương", người đọc bất ngờ với tư duy nghệ thuật khác, cách viết khác và không nhận ra Sương Nguyệt Minh như đã từng viết trước đây, mà là một Sương Nguyệt Minh bạo dạn, trẻ trung, dữ dội và phiêu bồng, thăng hoa hơn. 

Có thể nói, "Dị hương" là một dòng chảy lãng mạn đầy huyền bí được phóng đại lên quá chiều kích hiện thực thông thường. Đọc xong, gấp sách lại, người ta sẽ hỏi nhau, có thật không nhỉ? Có, mà cũng không có. Người ta hoài nghi "Đêm mùa hạ tuyết rơi", làm gì có cái nhà nào ở Hà Nội cao đến 170 tầng; đã là mùa hạ sao lại có tuyết rơi? Ở Việt Nam làm gì có tuyết? Ở truyện ngắn "Đồi con gái", làm gì có vụng Đàn bà, làm gì có Đồi con gái, cũng chẳng bao giờ có bãi cát Khỏa thân. Và huyền hoặc nhất có lẽ là "Dị hương", chất kỳ ảo được sử dụng đậm đặc, biến hóa, dẫn người đọc vào mê cung thần bí. Có ai bị chặt đầu bay ra nơi khác mà không chết? Sao lại chỉ có những con cá chép đực mới bị chết tức tưởi?… Sẽ có rất nhiều câu hỏi, sẽ có rất nhiêu nghi hoặc giải đáp sự phi lý, nhưng lại có lý vô cùng.

Nếu như truyện ngắn "Cha tôi" và "Bên dòng Tonle Sáp" vẫn là lối kể, tả hiện thực một câu chuyện có kết, đọc xong hiểu liền thì "Đêm thánh vô cùng" và "Đàn bà" đã có sự pha trộn hiện thực và lãng mạn. "Đêm mùa hạ tuyết rơi", "Mùa trâu ăn sương" đã thấm đẫm chất dị thường, khác biệt. Cuối cùng là "Đồi con gái" và "Dị hương" thì chất kỳ ảo, ma mị đã ngự trị thống lĩnh. 

Nhà văn luôn đồng hành, thậm chí còn đi trước thời đại ở chức năng dự báo. Thời đại đổi thay, con người trong xã hội thay đổi từ cách ăn uống, làm việc, giao tiếp đến cung bậc tình cảm. Sương Nguyệt Minh đã khá nhanh nhạy nắm bắt nhịp thở của cuộc sống. Trong tập truyện ngắn "Dị hương", cũng là tình yêu trai gái, nhưng chủ động, ào dạt, bản thể, sống cho mình; không còn những cái nắm tay hẹn hò như "Người ở bến sông Châu", không còn những e ấp lãng mạn ở "Mây bay cuối đường", cũng không chia ly vì cách trở như ở "Nanh sấu" nữa…

Ở truyện ngắn "Đêm thánh vô cùng" là tình cảm có thật của người chồng, người cha, nhưng thời đại công nghiệp, nhịp độ cuộc sống nhanh mạnh, gấp gáp, mỗi người đều theo đuổi cái riêng của mình mà ít quan tâm, để ý đến người bên cạnh, dù là người thân. Người chồng, người cha đã bị vợ và con bỏ rơi ngay trong căn nhà của mình. Có lẽ đời sống càng cao, con người càng bơ vơ, cô đơn. Sương Nguyệt Minh để nhân vật chạy trốn về với quá khứ, với ký ức tình yêu. Đọc xong, hẳn nhiều người trong chúng ta phải giật mình: Có giống mình không nhỉ, có giống gia đình mình không nhỉ? Con người ta cô đơn ở cơ quan, hay ở quán rượu là chuyện bình thường. Sương Nguyệt Minh đã đẩy mâu thuẫn lên đến tận cùng, nhân vật của ông bị cô đơn ngay trong ngôi nhà của mình, giữa những người thân yêu của mình.

"Đêm mùa hạ tuyết rơi" là sự phóng đại về tình yêu, sự tưởng tượng về một tình yêu lý tưởng nhưng rồi sự phản trắc đã kéo tuột tất cả giá trị thật của nó. Cái đẹp biến thành ý đồ tính toán, giá trị của cuốn sách lại bị đem so sánh với giá của một bộ đồ lót, "54 triệu đồng sẽ mua được một trăm bộ đồ lót giống như bộ underwear màu lửa anh tặng em…". Nhân vật là một khối mâu thuẫn, vừa có tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, lại vừa có sự tính toán thực dụng. Hình ảnh những con bọ cạp dán lên người của cô gái đẹp rất gây ấn tượng, và cũng hiện đại quá.

"Đồi con gái" như một triết lý tình yêu. Một tình yêu trong kìm nén, bên là trung trinh gìn giữ, bên là sự ham muốn xác thịt, muốn phá bung ra. “Đồi con gái” thực ra nói nhiều đến sự phản trắc của đàn bà. Nhân vật (hay tác giả) phải thốt lên: "Trời tru đất diệt cả thế giới đàn bà đi". Trong một bài trả lời phỏng vấn, Sương Nguyệt Minh bảo đấy chính là ông bênh vực đàn ông, rằng cánh đàn bà ghê gớm, đáo để, cánh đàn bà nhiều khi giết người không dao. "Đồi con gái" có cái chất ma mị, mơ hồ, giả tưởng. “Đồi con gái” là truyện ngắn không có cốt truyện, không có nhân vật chính. Có ông Trần thực thực, hư hư vừa biết "viết bài in trên tạp chí văn nghệ tỉnh nhà" vừa phảng phất một người đàn ông vạn chài, lại vừa mang dáng dấp một ông đồ nho, vừa lại giống một con ma trong đêm. Ông Trần có thể nói chuyện với ma nữa, lạ thế? Cả âm thanh cũng lạ lùng, tự nhiên trong đêm thanh vắng. Lại có đứa con gái đi dọc bờ biển hát…

Đọc mê man, chẳng biết ai là nhân vật chính, ai là nhân vật phụ, chỗ nào là ngoại đề, chỗ nào là cốt truyện, lẫn lộn, là tôi, là người con gái khoác tấm lưới, là ông Trần hay là cái "đồi con gái"? Chịu! chỉ biết rằng mỗi nhân vật ẩn ẩn hiện hiện, cứ như thật, như hư. Người ra biển, cứ ra biển. Rằng biển có mắt đâu mà nhìn thấy sự phản trắc của người ở nhà. Người làm tình với ma sao được? Sức mạnh bản năng con người rất mạnh. Trong người phụ nữ có sự giằng xé giữa đạo đức và bản năng thường nhật.

Những câu văn đọc rồi như mời, như gọi, rất gợi mở, đúng chất của ông, một vùng đất, một cái hoang đảo, có khách sạn, có nhà nghỉ, có giếng cổ, có rừng cây, có đàn khỉ biết trêu chọc phụ nữ, lại cả đàn nai làm tình nữa. Một hoang đảo đáng để người ta tìm đến lắm chứ?

Ở bìa tập truyện ngắn "Dị hương" vẽ một người đàn bà có tấm lưng đẹp mê hồn, thấp thoáng ai đó, công chúa trong lầu son, thiếu nữ vừa lớn đang e thẹn với bạn trai?… Bên cạnh một thanh gươm, hay cái kiếm của ai, của thế lực bạo tàn, của cái ác, hay sự trừng trị cái ác, của Nguyễn Ánh hay của những người chồng thời nay? Chung quy lại là gợi, là tò mò, là tự buộc mình phải xem, phải đọc.

Dùng mùi hương vừa đài các vừa dân dã phảng phất quyến rũ để nói về cái chính thống đẹp mê hồn của Công chúa Ngọc Bình; và mùi thuốc súng, mùi máu tanh là tà hương khác thường của ông vua Nguyễn Ánh đã từng ăn mắm tôm với cơm gạo lứt, dong thuyền vượt biển chạy trốn ngoài khơi, cầu viện bên ngoài để khôi phục cơ đồ. Phải chăng, lưỡi gươm oan nghiệt phạt xuống cổ cò của Trần Huy Sán như một sự thanh trừng, vứt bỏ phép vua tôi, là sự sôi sục, hờn ghen rất đời thường. Trong dân gian chẳng đã có câu: "Đau đẻ, ngứa ghẻ, đòn ghen". Nguyễn Ánh là con người đời thường, bằng xương, bằng thịt, biết yêu thương, biết giận hờn… Công chúa Ngọc Bình chết rồi, mùi hương trên thân thể của nàng vẫn phảng phất, như chính cái đẹp không bao giờ chết.

Chín truyện ngắn mới nhất trong tập "Dị hương" là bước ngoặt mới làm nên sự khác biệt trong hành trình sáng tác của nhà văn Sương Nguyệt Minh…

Theo  Hoàng Long Giang (VNCA)

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm

Đọc nhiều
Tiện ích
Tin mới