Chuyên gia nước ngoài: Đại học Việt Nam còn quá phụ thuộc vào học phí

(PLO)- Các cơ sở giáo dục đại học (ĐH) ở Việt Nam đang phụ thuộc quá nhiều vào học phí, tức là đóng góp của hộ gia đình và số này đang ngày càng tăng lên.
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

Sáng 21-4, tại hội thảo về Tự chủ đại học (ĐH) do Bộ GD&ĐT, ĐH Quốc gia TP.HCM và Ban tuyên giáo Trung ương tổ chức, ThS Christophe Lemiere (Trưởng ban phát triển con người, Ngân hàng thế giới tại Việt Nam) đã có bài phân tích đáng chú ý về các vấn đề về giáo dục ĐH ở Việt Nam.

Phụ thuộc quá nhiều vào học phí

Đánh giá trong 10 năm qua, ông Christophe Lemiere nhận định giáo dục ĐH Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể. Đơn cử, tăng gấp đôi cơ hội tiếp cận giáo dục ĐH trong giai đoạn 2000-2020, mở rộng các chương trình đào tạo tiên tiến/chất lượng cao, liên kết đào tạo với các trường ĐH quốc tế và các chương trình đào tạo bằng tiếng Anh.

Ngoài ra, Việt Nam có 5 trường ĐH có tên trong những bảng xếp hạng ĐH thế giới năm 2022 (THE, QS World University Rankings). Số lượng bài báo được trích dẫn trên 1 triệu dân đã tăng gấp ba lần. Hiện đại hóa quản trị ĐH theo Luật Giáo dục ĐH học sửa đổi năm 2018 và chương trình tự chủ ĐH từ năm 2014.

ThS Christophe Lemiere tại hội thảo.

ThS Christophe Lemiere tại hội thảo.

Tuy nhiên, Việt Nam lại là quốc gia có tỷ lệ nhập học vào ĐH-CĐ thấp nhất ở Đông Nam Á giai đoạn 2000-2020. Đáng chú ý, thanh niên Việt Nam thuộc hộ nghèo, cận nghèo chiếm chưa đến 15% tổng số sinh viên ĐH và có đến hơn 40% sinh viên thuộc diện khá giả.

Nhân lực nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam không thay đổi, dao động từ hơn 62.000 đến gần 72.000 người. Tỉ trọng ngân sách chi tiêu công phân bổ cho giáo dục CĐ-ĐH thuộc nhóm thấp nhất trong khu vực và các quốc gia tương đương. Chẳng hạn năm 2019, giáo dục ĐH Việt Nam chỉ nhận được 0.23% GDP hoặc 4.9% tổng chi tiêu công cho giáo dục.

Ông Christophe Lemiere cũng nhấn mạnh: Các trường ĐH đang phụ thuộc quá nhiều vào học phí, tức là đóng góp của hộ gia đình và đang ngày càng tăng.

Năm 2017, tỉ lệ này chiếm 57% nguồn thu của trường ĐH trong khi ngân sách nhà nước chỉ 24%. Đến năm 2021, hộ gia đình đóng góp đến 77% còn ngân sách chỉ chiếm 9%.

Hỗ trợ tài chính cho sinh viên hạn chế

Về vấn đề hỗ trợ tài chính cho sinh viên khó khăn, theo ThS Christophe Lemiere là còn khá nhiều hạn chế. Có thể kể ra như phạm vi bao phủ thấp, giá trị nhỏ và điều khoản trả nợ kém hấp dẫn, không có chương trình học bổng cấp quốc gia.

Cạnh đó, Chương trình cho vay sinh viên do Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam quản lý ngày càng khó tiếp cận. Cụ thể, năm 2011 có 2,4 triệu người thụ hưởng, năm 2017 chỉ có 725.000 người và đến năm 2021 chỉ còn 37.000 người thụ hưởng.

“Điều này dẫn đến 50% sinh viên sẽ đổi ngành học nếu gặp khó khăn về tài chính và chỉ 10-12% cân nhắc sử dụng tín dụng sinh viên, 10-16% quyết định vay người thân” - ThS Christophe Lemiere chỉ rõ.

Về kinh phí nghiên cứu phân bổ cho các trường ĐH, ThS Christophe Lemiere cho rằng còn thấp và không tương xứng với năng lực và tiềm năng. Tỉ lệ nhân lực nghiên cứu và phát triển của trường ĐH ở Việt Nam khoảng 50%, tuy nhiên ngân sách nhà nước phân bổ cho nghiên cứu tại các trường ĐH chỉ chiếm 16%.

Tại Trung Quốc, tỉ lệ nhân lực chỉ khoảng 10% nhưng ngân sách chi đến 24,4%. Chưa kể việc tiếp cận kinh phí nghiên cứu và phát triển cho các nhà nghiên cứu tại trường ĐH còn có những rào cản, đó là kinh phí thấp, không đủ đáp ứng nhu cầu thực hiện; quy trình thủ tục phức tạp; thời gian chờ phê duyệt quá lâu.

ThS Christophe Lemiere còn cho biết thêm, sự tham gia của khu vực tư nhân vào giáo dục ĐH còn hạn chế do: Cách tiếp cận xã hội hóa giáo dục ĐH chủ yếu xoay quanh học phí và đóng góp từ các hộ gia đình; rào cản về thể chế, chính sách đối với ĐH công lập như sử dụng tài sản công (đất đai, công trình); thiếu nhất quán, ngưỡng đầu tư PPP tối thiểu còn quá cao (100 tỉ đồng); thiếu hướng dẫn và hỗ trợ kỹ thuật trong việc tổ chức thực hiện dự án PPP...

5 khuyến nghị về tài chính

Từ những thực tế này, ThS Christophe Lemiere đã đưa 5 khuyến nghị chính sách về tài chính cho giáo dục ĐH Việt Nam. Cụ thể:

Thứ nhất, cần điều chỉnh cách tiếp cận về tự chủ tài chính của cơ sở giáo dục ĐH

Thứ hai, tăng đáng kể ngân sách nhà nước chi cho giáo dục ĐH, dành 0,8-1% GDP đầu tư cho giáo dục ĐH đến năm 2030, tức hơn 300 triệu USD/năm. Từ nguồn này sẽ giúp các trường có nguồn tài chính bền vững. Sinh viên được tiếp cận bình đẳng bằng các hình thức cho vay dựa trên thu nhập trong tương lai, miễn học phí cho các đối tượng mục tiêu và chương trình học bổng quốc gia.

Thứ ba, tăng tỉ lệ chi ngân sách nhà nước cho nghiên cứu và phát triển phân bổ cho các trường ĐH, dành hơn 30% đầu tư từ ngân sách nhà nước cho nghiên cứu và phát triển tại các trường ĐH, tức hơn 117 triệu USD/năm. Từ đây sẽ phát triển nguồn nhân lực và tăng cường năng lực nghiên cứu, phát triển bằng cách tài trợ kết hợp đào tạo và nghiên cứu hoặc tài trợ theo nguyên tắc cạnh tranh.

Thứ tư, điều chỉnh cơ chế phân bổ và đơn giản hóa quy trình nộp đơn đề xuất nghiên cứu.

Thứ năm, huy động nguồn lực bổ sung từ khu vực tư nhân, cụ thể tăng hợp tác công – tư, đa dạng hóa nguồn thu và tiếp cận tín dụng.

Tuy nhiên, ông cũng nhấn mạnh tránh đồng nhất tự chủ tài chính với tự lực cánh sinh về tài chính. Hiểu theo nghĩa hẹp là không có hỗ trợ từ ngân sách nhà nước vì các khía cạnh của tự chủ chủ tài chính bao gồm: Tính bền vững và các loại chi tiêu công, năng lực sản xuất thặng dư, khả năng vay tiền, khả năng sở hữu các tòa nhà, khả năng thu học phí.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm