Rất tiếc là cuộc trưng bày này lẽ ra có thể đạt kết quả tốt hơn, phục vụ công chúng tốt hơn nếu có thêm thông tin hỗ trợ cho hiện vật. Ví dụ, một món đồ gốm thời Lê (thế kỷ 15-16) có tên đĩa hoa lam vẽ cá ngão. Không phải ai cũng biết cá ngão là cá gì, đặc tính của cá ngão ra sao. Hơn nữa, tại sao người ta không vẽ con cá chép hóa rồng mà lại vẽ con cá ngão? Hoặc tô, chén, đĩa… có họa tiết trang trí là hình hoa sen cách điệu rất quen thuộc với người Việt. Tuy nhiên, liệu khách nước ngoài có hiểu họa tiết đó? Nếu có thêm thông tin giải thích thì đã tăng thêm giá trị cho hiện vật, khách nước ngoài cũng có cơ hội hiểu thêm văn hóa của ta.
Phần trưng bày các tượng cũng thiếu thông tin. Người xem có thể cảm nhận cái đẹp lồ lộ của món gốm nhưng khó mà hiểu được món gốm đó là gì, ý nghĩa thế nào, được làm ra nhằm mục đích gì. Ví dụ, có một tượng được gọi làtượng bà Nguyệt. Người xem sẽ lấy làm lạ vì sao không thấy bà Nguyệt liên quan gì đến se tơ kết tóc! Phải nhờ đến chú thích tiếng Anh là Goddess of the Moon Statue (tượng Nữ thần mặt trăng) mới hiểu “Nguyệt” ở đây là “Trăng” và tượng bà Nguyệt đi chung với tượng ông Nhật (đứng cách đó khoảng 1 m) chứ không phải bà nguyệt - ông tơ!
Đặc biệt, cuối gian trưng bày là một bức tượng tuyệt đẹp hình người phụ nữ tóc búi, mặt phúc hậu, tai dài, tà áo tha thướt bay phất phới điểm trùng trùng mây sóng. Tay trái của bà xách một cái giỏ mây. Bức tượng gợi hình ảnh Bồ tát nhưng lại có tên làtượng Đào dâu (gốm Biên Hòa, thế kỷ 20). Tuy nhiên, người này là ai, tại sao gọi là “Đào dâu” thì không có thông tin.
Xem trưng bày chuyên đề ngoài cảm nhận trực quan, người ta hy vọng có thể tìm kiếm nhiều kiến thức. Cuộc trưng bày rõ ràng chỉ mới trưng bày hiện vật, còn khâu thông tin về hiện vật đã không đủ làm người tham quan hài lòng.
QUỲNH NHƯ