Ngày 4-8, Bộ GD&ĐT phối hợp với Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội tổ chức hội nghị về tự chủ đại học (ĐH).
Hội nghị nhằm đánh giá kết quả đã đạt được trong triển khai tự chủ ĐH, nhìn nhận khó khăn, vướng mắc, xác định những nguyên nhân trọng yếu, từ đó định hướng lộ trình cùng những việc cần làm trong thời gian tới.
Những lực cản “níu chân” tự chủ ĐH
Phát biểu tại hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn cho rằng tự chủ ĐH là một cơ chế mới, phức tạp, cần đồng bộ của nhiều yếu tố, nhiều khâu, nhiều hoạt động. Vì vậy, trong quá trình triển khai thời gian qua vẫn có những vướng mắc, còn bộc lộ những hạn chế, khó khăn và đó cũng là điều khó tránh khỏi.
Trong đó có những vướng mắc do hệ thống các văn bản pháp luật làm nền tảng cho việc triển khai còn những điểm chồng chéo, thiếu đồng bộ và nhất quán.
Các đại biểu trao đổi tại hội nghị. Ảnh: TTTT |
“Có khó khăn vướng víu do những thói quen cũ, cách nghĩ cũ, tư duy cũ, vướng mắc do sự chia sẻ và đón nhận từ xã hội có chuyển biến chưa đồng bộ và tương thích. Có cả những ngộ nhận về các quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan tới tự chủ, có những trục trặc phát sinh trong quá trình chuyển đổi hệ thống và chuyển đổi của các đơn vị, các thành tố. Và cả những vấn đề nảy sinh từ các điều kiện để thực hiện tự chủ trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế - xã hội của Việt Nam trong hơn 30 năm qua” - Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhận xét.
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Hoàng Minh Sơn cũng cho rằng việc thực hiện tự chủ vẫn còn những hạn chế, như ở nhiều trường chưa xác định rõ vai trò của hội đồng trường, tiềm ẩn nguy cơ xung đột quyền lực. Nhiều trường còn chưa được kiểm định. Đa số các cơ sở có điều kiện cơ sở vật chất, năng lực tài chính còn yếu, chưa tương xứng với quy mô người học ngày càng tăng.
Ông Sơn đặt ra hai điểm cần khắc phục trong lộ trình tiếp theo. Thứ nhất là việc hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan tới tự chủ ĐH để tránh xung đột, thiếu đồng bộ.
Thứ hai là nâng cao mức chi từ ngân sách nhà nước cho giáo dục ĐH, trong đó đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách theo hướng chi đặt hàng các trường ĐH trong việc nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và chi trực tiếp cho người học.
“Chìa khóa” để thành công trong tự chủ ĐH
Theo TS Lê Trường Tùng, Chủ tịch Hội đồng Trường ĐH FPT, việc thực hiện tự chủ trong giáo dục ĐH là một điểm nhấn quan trọng trong phát triển giáo dục ĐH Việt Nam giai đoạn 2011-2020.
Ông Tùng cho rằng nếu không được đào tạo trong môi trường đổi mới, sáng tạo thì làm sao sinh viên (SV) sau này có thể cạnh tranh bởi sự khác biệt, làm sao có tư duy làm tốt, làm tốt hơn, làm sao vượt lên khỏi các công việc mang tính quy trình sẽ là việc dành cho robot và trí tuệ nhân tạo sau này.
“Khi sứ mạng của ĐH là kiến tạo tương lai, dẫn dắt kinh tế - xã hội chứ không phải là đi sau để xã hội hiện tại dẫn dắt.
Nếu trường ĐH không tự chủ thì không giải phóng được sức sáng tạo, không theo kịp tốc độ phát triển trong nền kinh tế tri thức. Không phải quy luật “cá lớn nuốt cá bé” mà là quy luật “nhanh thắng chậm”, nhanh theo tốc độ mở của hàm mũ” - TS Tùng cho hay.
142/232 là số trường ĐH đủ điều kiện tự chủ theo quy định của Luật Giáo dục ĐH (được sửa đổi, bổ sung năm 2018). Đến nay có 32,7% trường ĐH tự đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư; 13,7% trường ĐH đảm bảo chi thường xuyên.
Tổng thu của các cơ sở giáo dục ĐH tự chủ tăng rõ rệt. Trong đó, năm trường ĐH có mức thu hơn 1.000 tỉ đồng/năm: Trường ĐH FPT, Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, Trường ĐH Văn Lang, Trường ĐH Kinh tế TP.HCM, Trường ĐH Công nghệ TP.HCM.
Thu nhập bình quân tăng 20,8% đối với giảng viên và 18,7% đối với cán bộ quản lý. Trong đó, số giảng viên có thu nhập trên 200 triệu đồng/năm tăng từ 19,4% lên 31,3%; thu nhập trên 300 triệu đồng trở lên tăng từ 0,7% lên 5,9% sau ba năm thực hiện tự chủ.
Còn theo PGS-TS Bùi Anh Tuấn, Hiệu trưởng Trường ĐH Ngoại thương Hà Nội, “chìa khóa” để thành công trong tự chủ ĐH là các cơ sở giáo dục ĐH cần có nhận thức đúng đắn về vai trò của tự chủ ĐH đối với sự phát triển của các trường trong bối cảnh mới.
Các trường cần đảm bảo sự thống nhất, đoàn kết giữa các thiết chế Đảng ủy, hội đồng trường và ban giám hiệu trong quản trị ĐH.
Bài toán giảm áp lực học phí cho SV
Về vấn đề giảm áp lực học phí cho SV, PGS-TS Trần Xuân Nhĩ, nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT, cho rằng các trường cần đẩy mạnh nghiên cứu khoa học để thu tiền về, để giảm áp lực học phí cho SV nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng đào tạo.
“Nhà nước phải xem xét lại, trong hoàn cảnh của chúng ta hiện nay, không thể để các trường tự chủ thu tiền quá nhiều, nếu tăng quá mức nhân dân sẽ không có khả năng cho con em đi học, ảnh hưởng đến công tác tuyển sinh của các trường. Vì vậy, Nhà nước có thể cho SV vay một số tiền đủ để đi học, sau khi đi làm, nếu SV đó làm tốt công việc thì hoàn toàn có thể miễn khoản vay đó. Chính sách này đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới” - ông Nhĩ nói.
PGS-TS Vũ Hải Quân, Giám đốc ĐH Quốc gia TP.HCM, cũng cho rằng việc tăng học phí trong các trường ĐH công lập tự chủ có thể làm giảm cơ hội được đến trường của các SV có hoàn cảnh gia đình khó khăn, làm chậm quá trình mở rộng quy mô đào tạo nhân lực trình độ ĐH.
Ông Quân đưa ra dữ liệu, thống kê năm 2016 của Ngân hàng Thế giới cho thấy tỉ lệ SV ĐH đến từ các gia đình có mức thu nhập cao là 52%, trong khi chỉ có 19% SV đến từ các gia đình có mức thu nhập thấp, nhất là trong bối cảnh tác động của đại dịch COVID-19.
Ông Quân kiến nghị cần có lộ trình điều tiết ngân sách nhà nước đối với các trường ĐH tự chủ theo hướng chỉ dừng cấp ngân sách chi thường xuyên sau khi trường ĐH đã tự chủ xong một chu kỳ đào tạo (4-5 năm), để đảm bảo việc tăng học phí của các trường ĐH tự chủ phải theo lộ trình. Sớm hoàn thiện các thể chế, chính sách pháp luật để thúc đẩy hợp tác PPP, nghiên cứu chuyển giao khoa học và công nghệ, thúc đẩy văn hóa hiến tặng...
Ngoài ra, cần mở rộng đối tượng được hưởng chính sách tín dụng SV. Điều chỉnh mức cho vay nhằm đảm bảo cho SV có thể chi tiêu cho đời sống bằng nhóm trung bình của xã hội và đủ tiền nộp học phí. Giảm mức lãi suất cho vay đối với SV vay vốn là 3%-4%/năm hoặc chia theo lộ trình trong thời gian đi học được áp dụng lãi suất vay ưu đãi là 3%-4%/năm; sau khi tốt nghiệp ra trường sẽ áp dụng lãi suất cao hơn. Điều chỉnh thời gian vay tối thiểu 15 năm hoặc gấp ba lần thời gian vay (ví dụ, học bốn năm được vay và trả nợ vay tối đa là 12 năm; học bảy năm được vay và trả nợ vay tối đa là 21 năm). Bên cạnh đó, nghiên cứu xây dựng và sớm ban hành chính sách tín dụng cho vay thương mại dành cho SV…
|
Tự chủ không phải là không có quản lý nhà nước
Tự chủ, tự quản không phải là tự do, tự lo, không có quản lý nhà nước. Các trường ĐH tự chủ phải tuân thủ pháp luật, gắn với trách nhiệm giải trình. Đây cũng là xu thế chung của các nước trên thế giới.
Bộ GD&ĐT phải làm việc với các bộ cấp trên trực tiếp của một số trường ĐH để làm rõ nguyên nhân, có giải pháp tháo gỡ cho những trường: Chưa thành lập hội đồng trường và các cơ cấu theo quy định của pháp luật; chủ tịch hội đồng trường chưa là bí thư Đảng ủy; chưa có quỹ để cấp học bổng cho SV nghèo, đối tượng chính sách…; tập trung giải quyết dứt điểm một số trường chuyển từ dân lập sang tư thục…
Đồng thời, Bộ GD&ĐT tiếp tục nghiên cứu, kiến nghị đổi mới về nhân sự trong bộ máy tổ chức trường ĐH để phát huy tối đa kinh nghiệm của những cán bộ lãnh đạo đã quá tuổi tham gia các cơ chế hội đồng.
Các trường phải có quy chế hoạt động nội bộ như “bộ luật” của trường, được thực hiện xây dựng công khai, minh bạch trong toàn trường; làm mạnh hơn nữa cơ chế tự chủ xuống đến từng khoa, phòng, giảng viên.
Về những khó khăn về cơ chế tài chính, Phó Thủ tướng đề nghị Bộ GD&ĐT, Hiệp hội Các trường ĐH - CĐ Việt Nam, các trường ĐH phải chủ động nghiên cứu, từ đó kiến nghị cụ thể, không chỉ kêu vướng.
Phó Thủ tướng Chính phủ VŨ ĐỨC ĐAM