Từ 1-1-2025, Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ sẽ có hiệu lực. Theo đó, nhiều quy định mới về giao thông đường bộ mà người dân cần nắm.
Thế nào là vượt xe đúng luật?
Điều 15 của Luật Trật tự an toàn giao thông quy định về vượt xe và nhường đường cho xe xin vượt như sau:
Vượt xe là tình huống giao thông trên đường mà mỗi chiều đường xe chạy chỉ có một làn đường dành cho xe cơ giới, xe đi phía sau di chuyển sang bên trái để di chuyển lên trước xe phía trước.
Trên đường có từ hai làn đường dành cho xe cơ giới cùng chiều trở lên được phân biệt bằng vạch kẻ đường, xe đi phía sau di chuyển lên trước xe phía trước thì áp dụng quy tắc sử dụng làn đường quy định tại Điều 14 của Luật này.
Khi vượt các xe phải vượt bên trái; trường hợp khi xe phía trước có tín hiệu rẽ trái hoặc đang rẽ trái hoặc khi xe chuyên dùng đang làm việc trên đường mà không thể vượt bên trái thì được vượt về bên phải.
Xe xin vượt chỉ được vượt khi không có chướng ngại vật phía trước, không có xe chạy ngược chiều trong đoạn đường định vượt, xe chạy trước không có tín hiệu vượt xe khác, đã bật tín hiệu rẽ phải và tránh về bên phải.
Khi có xe xin vượt, người điều khiển phương tiện phía trước phải quan sát phần đường phía trước, nếu đủ điều kiện an toàn thì phải giảm tốc độ, bật tín hiệu rẽ phải báo hiệu cho người điều khiển phương tiện phía sau biết được vượt và đi sát về bên phải của phần đường xe chạy cho đến khi xe sau đã vượt qua, không được gây cản trở đối với xe xin vượt.
Trường hợp có chướng ngại vật hoặc không đủ điều kiện an toàn thì người điều khiển phương tiện phía trước bật tín hiệu rẽ trái báo hiệu cho người điều khiển phương tiện phía sau biết là chưa được vượt.
Xe xin vượt phải có báo hiệu nhấp nháy bằng đèn chiếu sáng phía trước hoặc còi (trừ loại xe thô sơ thiết kế không có đèn chiếu sáng và còi), khi vượt xe phải có tín hiệu báo hướng chuyển, tín hiệu báo hướng chuyển được sử dụng, bảo đảm khoảng cách an toàn với xe phía trước và phía sau trong suốt quá trình vượt xe; trong đô thị và khu đông dân cư trong thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến 5 giờ ngày hôm sau chỉ được báo hiệu xin vượt bằng đèn.
Không được vượt xe trong trường hợp nào?
Khoản 6 Điều 15 Luật này quy định không được vượt xe trong trường hợp sau đây:
Khi không bảo đảm các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều này;
Trên cầu hẹp có một làn đường;
Đường cong có tầm nhìn bị hạn chế;
Trên đường hai chiều tại khu vực đỉnh dốc có tầm nhìn bị hạn chế;
Nơi đường giao nhau, đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt;
Khi điều kiện thời tiết hoặc đường không bảo đảm an toàn cho việc vượt;
Khi gặp xe ưu tiên đang làm nhiệm vụ;
Ở phần đường dành cho người đi bộ qua đường;
Khi có người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường;
Trong hầm đường bộ.
Lỗi vượt xe bên phải bị xử phạt bao nhiêu?
Nếu người điều khiển phương tiện giao thông cho xe vượt bên phải trong các trường hợp không được phép theo quy định nêu trên thì có thể chịu các mức phạt như sau:
Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô vượt bên phải xe khác trong trường hợp không được phép, trừ trường hợp tại đoạn đường có nhiều làn đường cho xe đi cùng chiều được phân biệt bằng vạch kẻ phân làn đường mà xe chạy trên làn đường bên phải chạy nhanh hơn xe đang chạy trên làn đường bên trái. (Điểm d khoản 5 Điều 5 Nghị định 100/2019, sửa đổi Nghị định 123/2021)
Ngoài việc bị phạt tiền, người điều khiển xe thực hiện hành vi vi phạm còn bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe từ 1 tháng đến 3 tháng. (Điểm b khoản 11 Điều 5 Nghị định 100/2019, sửa đổi Nghị định 123/2021)
Phạt tiền từ 400.000 đồng đến 600.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy vượt bên phải trong trường hợp không được phép. (Điểm h khoản 3 Điều 6 Nghị định 100/2019, sửa đổi Nghị định 123/2021)
Phạt tiền từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng đối với người điều khiển xe đạp, xe đạp máy (kể cả xe đạp điện), người điều khiển xe thô sơ khác vượt bên phải trong các trường hợp không được phép. (Điểm d khoản 1 Điều 8 Nghị định 100/2019, sửa đổi Nghị định 123/2021)