VKSND tỉnh Bình Thuận vừa đề nghị VKSND Tối cao và VKSND Cấp cao tại TP.HCM kháng nghị giám đốc thẩm bản án dân sự phúc thẩm ngày 30-12-2015 của TAND tỉnh này vì vi phạm tố tụng nghiêm trọng và có sai sót về nội dung...
Vào trường học lấy lời khai
Theo tường trình của hai em T. (SN 1995) và N. (SN 2000), hai em thường đến nhà dì ruột là bà Lê Thị Thanh ở gần nhà (thị trấn Liên Hương, Tuy Phong) chơi. Bà Thanh có quan hệ vay mượn tiền với bà Nguyễn Thùy Vân ở gần đó nên thỉnh thoảng có nhờ hai em mang tiền lãi đến trả.
Theo bà Thanh, năm 2013 bà vẫn còn nợ bà Vân 200 triệu đồng. Thời điểm này, bà gần như phá sản, không có khả năng trả nợ. Lúc đó bà Vân đã “dụ dỗ, ép buộc” em T. và em N. (cả hai đều là học sinh) viết ba giấy mượn tiền đứng tên mẹ mình là bà Lê Thị Mười để mượn bà Vân tổng cộng 220 triệu đồng.
Sau đó, bà Vân khởi kiện vợ chồng bà Mười ra tòa đòi nợ. Trong các lần hòa giải, vợ chồng bà Mười không đến vì luôn cho rằng họ không hề mượn tiền, cũng không nhờ con viết giấy mượn tiền. Hơn nữa số nợ trên bà Thanh luôn khẳng định đó là tiền bà đã mượn của bà Vân và sẽ có trách nhiệm trả nợ khi có tiền...
TAND huyện Tuy Phong đã cử cán bộ vào trường học lấy lời khai của hai em T. và N. ngay trong giờ học, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của hai em. Sau đó, tòa đưa vụ kiện ra xét xử sơ thẩm, tuyên buộc vợ chồng bà Mười phải trả nợ cho bà Vân. Vợ chồng bà Mười kháng cáo, tiếp tục khẳng định không hề mượn một đồng nào của bà Vân.
Ngày 30-12-2015, TAND tỉnh Bình Thuận mở phiên xử phúc thẩm. Tại tòa, đại diện VKS đề nghị bác yêu cầu của bà Vân, sửa bản án sơ thẩm vì không có căn cứ chứng minh vợ chồng bà Mười nhận tiền và có viết giấy mượn tiền. Chứng cứ chỉ thể hiện hai con của bà Mười viết giấy mượn tiền nhưng đây là mối quan hệ pháp luật khác chưa có đương sự nào yêu cầu giải quyết, nếu có tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác. Tuy nhiên, TAND tỉnh Bình Thuận đã giữ nguyên bản án sơ thẩm.
VKS: Sai cả về tố tụng lẫn nội dung
Theo VKSND tỉnh Bình Thuận, bản án sơ thẩm của TAND huyện Tuy Phong và bản án phúc thẩm của TAND tỉnh Bình Thuận đều vi phạm tố tụng nghiêm trọng. Về nội dung, hai cấp tòa đã không xem xét các tình tiết khách quan của vụ án để có quyết định phù hợp pháp luật, làm ảnh hưởng quyền lợi chính đáng của đương sự.
Cụ thể, khi cán bộ tòa vào trường học lấy lời khai, em N. mới 13 tuổi, là người chưa thành niên nhưng tòa lại không mời cha mẹ em làm giám hộ. Cạnh đó, trong biên bản lấy lời khai, cán bộ tòa lại không ký tên, không đóng dấu tòa, không ký từng trang, chừa nhiều dòng trống sai nguyên tắc; em N. không được đọc lại và không nghe đọc lại; không có xác nhận của người đại diện hợp pháp của em N. mà chỉ có xác nhận của cô giáo chủ nhiệm (người làm chứng).
Về nội dung, trong hồ sơ có hai giấy mượn tổng cộng 170 triệu đồng do em T. viết thì có một giấy mượn tiền ngày 12-8-2013 âm lịch không có ký tên. Thời điểm đó, em T. đã đủ 18 tuổi nên trách nhiệm trả nợ là của em T., nguyên đơn phải kiện em T. chứ không thể kiện đòi cha mẹ em. Trong trường hợp nếu em T. đưa khoản tiền trên về cho cha mẹ sử dụng thì đó là mối quan hệ pháp luật khác mà trong mối quan hệ pháp luật này không có đương sự nào có yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập nên không thuộc phạm vi giải quyết của vụ án này.
Cạnh đó, có một giấy mượn 50 triệu đồng do em N. viết thì vào thời điểm đó em N. mới 13 tuổi, là người chưa thành niên theo quy định của Điều 18 BLDS nên không được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Do đó, giao dịch mượn tiền của em N. bị vô hiệu theo quy định Điều 122 và 127 BLDS. Giao dịch vô hiệu thì hai bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận nhưng trong giấy này không thể hiện em N. có nhận khoản tiền nào, cũng như không thể hiện nợ ai khoản tiền này. Vì vậy, hai cấp tòa buộc em N. và người đại diện hợp pháp của em trả lại khoản tiền 50 triệu đồng là chưa có căn cứ.
Từ các phân tích trên, VKSND tỉnh Bình Thuận cho rằng việc đề nghị VKSND Cấp cao tại TP.HCM kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng hủy hai bản án sơ, phúc thẩm, trả hồ sơ về cho tòa sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung là cần thiết.
Chúng tôi sẽ tiếp tục thông tin khi vụ việc có diễn tiến mới.
Một số quy định liên quan Theo Điều 18 BLDS 2005, người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên. Theo Điều 19 BLDS 2005, người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại Điều 22 và Điều 23 của bộ luật này (mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự). Theo khoản 1 Điều 20 BLDS 2005, người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác. |