Theo hồ sơ, năm 1995, ông H. khởi kiện đòi ông N. phải trả lại cho mình phần chái nhà (rộng 23 m2, ông N. đang ở tạm) bởi nó nằm trong tổng thể căn nhà ông đã mua lại.
Tranh phần đất trống
Ngày 29-11-1995, TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện, buộc ông N. phải giao chái nhà cho ông H. Bản án phúc thẩm sau đó của TAND Tối cao cũng đã y án sơ thẩm.
Tháng 6-1997, ông N. tự nguyện thi hành án rồi dọn ra phần đất trống kế bên chái nhà (rộng 137 m2) ở tạm. Ông H. không đồng ý vì theo ông phần đất trống trên cũng nằm trong khuôn viên nhà mình. Ông N. phản đối bảo đất này do mình khai phá nên được quyền sử dụng. Ngay cả cơ quan thi hành án tỉnh bấy giờ cũng không biết xử sao bởi họ chỉ có thể giao chái nhà cho ông H., còn đất kia thì không thể vì không có trong bản án.
Án viết tay, án phát hành chênh nhau
Hai bên đang tranh chấp, bỗng nhiên ông H. được cấp giấy tờ đất có cả phần đất trên. Ông N. lại khiếu nại... Giữa năm 2005, TAND tỉnh có công văn trả lời xác định trong phần quyết định của các bản án đều không ghi nhận 137 m2 đất giao cho ai. Đầu năm 2007, UBND tỉnh cũng tái khẳng định một số công văn trả lời của tòa trước nay đều không xác định ai được sử dụng lô đất. Do vậy không có cơ sở pháp lý công nhận quyền sử dụng đất cho ông H.
Thế nhưng trong khi giấy đỏ của ông H. chưa được thu hồi, tháng 10-2009, TAND tỉnh bỗng ra thông báo thu hồi, hủy bỏ bản án dân sự sơ thẩm ngày 29-11-1995 gửi cho các bên liên quan... Theo tòa, tại bản án chính thức (tức bản án viết tay, có chữ ký của các thành viên HĐXX) có nhận định về phần diện tích tranh chấp nói trên và buộc ông N. phải trả chái nhà 23 m2 cùng 137 m2 đất cho ông H. Bản “trích lục bản án, quyết định dân sự” trong cùng ngày xét xử cũng ghi nhận đúng như vậy. Nhưng do sơ suất khi đánh máy nên thư ký đã đánh thiếu cụm từ “cùng 137 m2 đất” trong bản phát cho đương sự gần một tháng sau đó. Khi có kháng cáo, tòa cấp phúc thẩm cũng căn cứ bản án phát ra này để tuyên y án. Nhận thấy sai sót nên dù đã 15 năm trôi qua, tòa vẫn phải đính chính, sửa lại bản án, yêu cầu ông N. tiếp tục trả lại đất cho ông H.
Thi hành án rối
Trong gần hai năm qua, ông N. liên tục gửi đơn đến các cơ quan chức năng khiếu nại. Tuy nhiên, các văn bản mới đây của một số cơ quan chức năng của tỉnh đều thể hiện: Dựa vào thông báo của TAND tỉnh, kết quả đo vẽ lại của UBND TP Vũng Tàu thì phần đất trên là của ông H. Vụ án trên đã hết thời hiệu kháng nghị giám đốc thẩm nên khiếu nại của ông N. không có cơ sở để giải quyết, ông phải thi hành án tiếp bản án.
Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã mời hai bên và cả chính quyền địa phương đến để bàn cách giải quyết nhưng vẫn có nhiều ý kiến khác nhau. Thực tế bản án đã thi hành 15 năm rồi còn chuyện bản án gốc viết tay như tòa nói Cục cũng không được thấy...
Đính chính sai luật Theo Điều 240 BLTTDS, sau khi tuyên án xong không được sửa chữa, bổ sung bản án. Trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai. Việc sửa chữa, bổ sung phải được thông báo ngay cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc sửa chữa, bổ sung; đồng thời thông báo cho cơ quan, tổ chức khởi kiện và VKSND cùng cấp được biết. Ở đây, TAND tỉnh đã không đính chính ngay dẫn đến cấp phúc thẩm y án. Tiếp đó, thông báo đính chính sau 15 năm thêm hẳn một nội dung khác so với án đã phát hành. Đây là vấn đề rất lớn, có thể thay đổi bản chất vụ việc, ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của người phải thi hành bản án. Tôi cho rằng việc đính chính trên là sai luật. Luật sư HUỲNH VĂN NÔNG, Đoàn Luật sư TP.HCM |
LINH TUYỀN