Vụ sụp đổ ngân hàng Mỹ tác động thế nào lên thị trường toàn cầu?

(PLO)- Các ngân hàng trung ương cần tính toán lại chu kỳ tăng lãi suất và siết chặt các quy định về bảo hiểm tiền gửi để đảm bảo không lặp lại một vụ sụp đổ khác.
0:00 / 0:00
0:00
  • Nam miền Bắc
  • Nữ miền Bắc
  • Nữ miền Nam
  • Nam miền Nam

Vừa qua, vụ sụp đổ liên tiếp ba ngân hàng lớn gồm Silicon Valley Bank (SVB), Signature Bank và Silvergate đã làm giới chức hoạch định chính sách quốc tế phải chuyển sang “chế độ chữa cháy” khi các nhà đầu tư lo ngại về khả năng lây lan từ các vụ đổ vỡ nói trên. Hiện nhiều ý kiến cho rằng ngân hàng trung ương các nước có thể buộc phải giảm hoặc đảo ngược việc tăng lãi suất mạnh để ngăn chặn bất ổn.

Nhiều nước cảnh giác trước bất ổn ở Mỹ

Theo tờ The Wall Street Journal, sự sụp đổ của ba ngân hàng lớn ở Mỹ nói trên và làn sóng hoảng loạn trên thị trường toàn cầu nhấn mạnh đã bộc lộ nhiều lỗ hổng trong cách tiếp cận hiện nay của nhiều ngân hàng trung ương khi kiên quyết tăng lãi suất với tốc độ nhanh nhất trong nhiều năm trở lại đây để dập tắt lạm phát cao.

Bên ngoài trụ sở Ngân hàng Silicon Valley ở TP Santa Clara, bang California, Mỹ ngày 13-3. Ảnh: CNN

Bên ngoài trụ sở Ngân hàng Silicon Valley ở TP Santa Clara, bang California, Mỹ ngày 13-3. Ảnh: CNN

Việc tăng lãi suất nhanh chóng của các ngân hàng trung ương trong năm qua đã tạo ra gánh nặng đến hoạt động cho vay và tăng trưởng kinh tế nhằm mục đích hạ nhiệt lạm phát. Bên cạnh đó, nó còn làm giảm giá trị của danh mục đầu tư trái phiếu mà nhiều ngân hàng thương mại đang nắm giữ.

Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) nói riêng thời gian qua đã phải hiệu chỉnh kỹ lưỡng chính sách tiền tệ để giữ lãi đủ cao để hạ nhiệt lạm phát nhưng không cao đến mức làm sụp đổ nền kinh tế châu Âu đang suy yếu do tình hình ở Ukraine hoặc tạo gánh nặng lên các quốc gia có mức nợ cao như Ý, Hy Lạp hoặc Pháp. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng ngân hàng ở Mỹ đã tạo ra một biến số nguy hiểm mới mà ECB cần phải tính vào cho kỳ đánh giá lãi suất tiếp theo. Nếu ECB quyết định tăng lãi một lần nữa thì rủi ro cho ổn định hệ thống tài chính là rất lớn.

Tại Đức, Ngân hàng Trung ương Đức mới đây đã triệu tập một nhóm xử lý khủng hoảng để đánh giá hậu quả mà khủng hoảng ngân hàng ở Mỹ có thể ảnh hưởng lên sức khỏe tài chính Đức. Tại Anh, cơ quan chức năng cho biết họ đã đóng cửa chi nhánh của SVB và yêu cầu Ngân hàng HSBC hỗ trợ mua lại.

Các cổ phiếu vốn hóa lớn của châu Âu giảm khoảng 3% hôm đầu tuần trước trong khi chênh lệch giữa lợi tức trái phiếu chính phủ Đức và Ý nới rộng, báo hiệu tâm lý ngại rủi ro của các nhà đầu tư gia tăng. Đồng euro tăng lên, 1 euro đổi 1,074 USD, tăng khoảng 2 cent so với một tuần trước đó, khi nhiều nhà đầu tư tin rằng Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sẽ sớm bắt đầu giảm lãi suất.

Khó tái diễn khủng hoảng tài chính năm 2008

Hiện thị trường toàn cầu đều có chung câu hỏi lớn là liệu cơ quan quản lý tài chính Mỹ đã giải quyết được vấn đề chưa, đã hành động đủ chưa hay đây chỉ là khởi đầu cho một cuộc khủng hoảng tài chính sâu rộng hơn và sẽ lan ra thêm nhiều nước nữa?

Một số nhà đầu tư và giới lãnh đạo ngân hàng trung ương lo ngại mối liên kết giữa các tổ chức tài chính, suy thoái kinh tế hoặc thậm chí chỉ là sự hoảng loạn của thị trường có thể khiến nhiều ngân hàng hoặc tổ chức khác gặp khó khăn hơn nữa. Cựu Phó Thống đốc Ngân hàng Trung ương Ireland Stefan Gerlach cảnh báo việc hàng loạt ngân hàng trung ương giữ mức lãi suất cao như hiện nay là điều kiện rất dễ để xảy ra sự cố tài chính.

Ngày 18-3, hãng tin Bloomberg cho biết Liên minh các ngân hàng cỡ vừa của Mỹ (MBCA) vừa gửi văn bản đã yêu cầu các cơ quan quản lý liên bang phải bảo hiểm tất cả khoản tiền gửi của khách hàng của họ trong hai năm để khôi phục niềm tin của khách hàng. MBCA tự nguyện tăng khoản góp cho các cơ quan liên bang.

Hiện các nhà phân tích vẫn nhận định khó có chuyện xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính tương tự như cuộc khủng hoảng nổ ra năm 2008. Theo công ty tài chính Capital Economics (Anh), cốt lõi của hệ thống ngân hàng ở Mỹ và hệ thống ngân hàng toàn cầu hiện nay được vốn hóa tốt hơn nhiều, có mức thanh khoản lớn hơn và thường xuyên được các giám sát viên tài chính sát hạch.

Trường hợp sụp đổ của ba ngân hàng mới đây như SVB phần lớn là do phải đối mặt với những vấn đề cụ thể liên quan đến rủi ro không được bảo hiểm cũng như việc các ngân hàng này không đa dạng hóa tệp khách hàng. Bên cạnh đó, nhiều nhà phân tích cũng chỉ ra rằng các chi nhánh nước ngoài của ngân hàng này có quy mô nhỏ và không phải chịu các bài sát hạch căng thẳng từ cơ quan quản lý Mỹ - vốn đã có thể giúp tránh được một vụ khủng hoảng như hiện tại xảy ra.

Ủy viên Kinh tế châu Âu Paolo Gentiloni nhận định hiện các cơ quan châu Âu vẫn chưa thấy dấu hiệu nguy cơ lây lan khủng hoảng cụ thể. Theo ông, tất cả ngân hàng ở châu Âu, không chỉ các ngân hàng lớn nhất, đều tuân thủ các tiêu chuẩn quy định khắt khe và sau sự cố lần này sẽ còn siết chặt các quy định này hơn nữa.

Dù vậy, các nhà đầu tư và ngân hàng trung ương lúc này vẫn nên thận trọng. Nhiều nhà đầu tư hiện tin rằng Fed sẽ giảm lãi suất vào cuối năm nay. Đó là bước ngoặt lớn so với chỉ hai tuần trước, khi Chủ tịch Fed Jerome Powell khẳng định cơ quan này có thể sẽ cần tăng lãi suất nhiều hơn dự kiến.

Đối với các ngân hàng trung ương khác, ông Gerlach cho rằng dư địa tài chính của các nước khác không bằng Mỹ, do đó các cơ quan này cần phải tính toán kỹ. “Họ cần phải suy nghĩ kỹ về mức độ lạm phát mà bạn sẵn sàng mạo hiểm để có thêm một chút ổn định tài chính” - ông Gerlach chia sẻ.

Trong khi đó, chuyên gia Kallum Pickering thuộc Ngân hàng Berenberg (Đức) nhận định cho đến khi các ngân hàng trung ương tạm dừng chu kỳ tăng lãi suất để cho thị trường có thời gian điều chỉnh theo mức lãi suất mới thì các nhà đầu tư có thể không sẵn sàng chấp nhận rủi ro vào lúc này.•

Ít nhất 186 ngân hàng ở Mỹ có nguy cơ sụp đổ như SVB

Theo đài Fox News, một nghiên cứu mới của một nhóm chuyên gia từ một loạt ĐH Mỹ là ĐH South California, ĐH Northwestern, ĐH Columbia và ĐH Stanford cảnh báo hiện có ít nhất 186 ngân hàng ở Mỹ dễ bị tổn thương trước làn sóng rút tiền ồ ạt của những người gửi tiền không được bảo hiểm - nguyên nhân dẫn tới vụ phá sản của SVB.

Theo đó, các chuyên gia đã đánh giá báo cáo tài sản và tổn thất giá trị trên thị trường của từng ngân hàng này. Họ chỉ ra việc tăng lãi suất của Fed đã khiến các tài sản như trái phiếu chính phủ và khoản vay thế chấp giảm giá trị.

Các nhà kinh tế cũng phân tích tỉ lệ tiền gửi của các ngân hàng này. Nguồn vốn của họ chủ yếu đến từ những người gửi tiền không được bảo hiểm, tức có tài khoản trên 250.000 USD. Theo quy định, những công ty đăng ký thành viên với Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang (FDIC) sẽ được bảo hiểm cho khoản tiền gửi dưới 250.000 USD.

Nếu khoảng 50% người trong số này ồ ạt rút tiền, 300 tỉ USD tiền gửi được bảo hiểm có khả năng gặp rủi ro. Sau khi thanh toán tiền gửi không bảo hiểm, nếu giá trị tài sản ngân hàng không đủ để trả cho những tài khoản còn lại, ngân hàng sẽ bị coi là mất khả năng thanh toán. Tương tự SVB, cơ quan quản lý sẽ đóng cửa công ty và chuyển quyền kiểm soát cho FDIC.

Đừng bỏ lỡ

Video đang xem nhiều

Đọc thêm