Hôm nay (27-11), Trường ĐH Luật TP.HCM phối hợp với Trường Luật (Đại học Canterbury, New Zealand) và Tạp chí Transnational Criminal Law Review (Đại học Windsor, Canada) tổ chức Hội thảo quốc tế về “Luật Hình sự xuyên quốc gia khu vực Châu Á - Thái Bình Dương”.
Tội mua bán người có bắt buộc mục đích bóc lột?
Tại hội thảo, PGS.TS Nguyễn Thị Phương Hoa - Trưởng Khoa Luật Hình sự, Trường ĐH Luật TP.HCM trình bày tham luận về “Hướng tới việc tội phạm hóa hiệu quả hành vi mua bán người trong pháp luật hình sự Việt Nam: Cách tiếp cận so sánh và thực tế các vụ án”.
Theo bà Hoa, Việt Nam là thành viên của Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em năm 2000 và Công ước ASEAN về chống mua bán người năm 2015. Các điều ước quốc tế này yêu cầu quốc gia thành viên tội phạm hóa các hành vi mua bán người và mua bán trẻ em.
Luật Phòng, chống mua bán người 2024 và BLHS 2015 của nước ta đã tội phạm hóa các hành vi mua bán người và mua bán trẻ em, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong việc đấu tranh với tội phạm vi phạm nghiêm trọng quyền con người.
Bên cạnh những thành công trong thực tiễn đấu tranh với tội phạm, dấu hiệu của tội phạm mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi trong Luật Hình sự Việt Nam chưa coi mục đích bóc lột là bắt buộc đối với một số trường hợp phạm tội (điểm a khoản 1 Điều 150 và điểm a khoản 1 Điều 151 BLHS năm 2015).
Trong khi đó, theo chuẩn mực quốc tế, đây là dấu hiệu bắt buộc phân biệt tội mua bán người với những hành vi không phải là tội phạm như: môi giới việc làm, môi giới kết hôn...Ngoài ra, đây là dấu hiệu quan trọng để phân biệt những hành vi chuyển giao, tiếp nhận người trong tội mua bán người với tội phạm khác như tội cưỡng ép kết hôn (Điều 181 BLHS năm 2015).
Thông qua việc so sánh với các tiêu chuẩn quốc tế, PGS.TS Hoa đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam về tội mua bán người và mua bán người dưới 16 tuổi như sau:
- Thứ nhất, bổ sung dấu hiệu mục đích bóc lột vào khái niệm mua bán người, mua bán người dưới 18 tuổi tại Luật Phòng, chống mua bán người 2024 và dấu hiệu của tội phạm tại điểm a khoản 1 Điều 150, 151 BLHS năm 2015. Đồng thời, điều chỉnh điểm a, b khoản 1 của các điều này cho phù hợp.
- Thứ hai, điều chỉnh dấu hiệu mục đích ở các điểm b khoản 1 Điều 150, 151 BLHS năm 2015 cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế và hiệu quả hơn trong đấu tranh với loại tội phạm này.
- Thứ ba, điều chỉnh điểm c khoản 1 Điều 150, 151 BLHS năm 2015 vì các hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp người với mục đích bóc lột đều là hành vi khách quan của tội mua bán người, mua bán người dưới 18 tuổi theo chuẩn mực quốc tế.
- Thứ tư, điều chỉnh đối tượng tác động của tội phạm tại Điều 151 BLHS năm 2015 thành “Tội mua bán người dưới 18 tuổi” để phù hợp với chuẩn mực quốc tế và phù hợp với khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024, tạo sự thống nhất nội tại trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Bóc lột tình dục trẻ em trực tuyến là đặc biệt nguy hiểm
Cũng tại hội thảo, PGS.TS Lê Huỳnh Tấn Duy – Phó Trưởng Khoa Luật hình sự, Trường ĐH Luật TP.HCM, trình bày tham luận về: “Cơ chế tương trợ tư pháp trong điều tra tội phạm xâm hại và bóc lột tình dục trẻ em trực tuyến: Nghiên cứu so sánh giữa Úc với Philippines và kinh nghiệm cho Việt Nam”
Theo PGS.TS Duy, xâm hại và bóc lột tình dục trẻ em trực tuyến là những hành vi phạm tội có tổ chức xuyên quốc gia đặc biệt nguy hiểm, gây ra những hậu quả nghiêm trọng trên nhiều phương diện, đặc biệt là đối với sự phát triển lành mạnh của trẻ em. Việc phát hiện và điều tra những hành vi phạm tội này thường phức tạp và đầy thách thức do tính chất xuyên biên giới của chúng và sự liên quan đến chứng cứ điện tử. Do đó, tương trợ tư pháp trong quá trình điều tra các tội phạm này là một yếu tố thiết yếu và đóng vai trò quan trọng.
Dựa trên phân tích và đánh giá các cơ chế tương trợ tư pháp giữa Úc và Philippines, tập trung vào giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đồng thời so sánh với cơ chế tương ứng tại Việt Nam, ông Duy đề xuất các giải pháp cải cách pháp luật và thực thi nhằm nâng cao hiệu quả của cơ chế tương trợ tư pháp trong điều tra các tội phạm xâm hại và bóc lột tình dục trẻ em trực tuyến tại Việt Nam.
Cụ thể, cần nội luật hóa đúng và đầy đủ quy định của pháp luật quốc tế về các hành vi xâm hại và bóc lột tình dục trẻ em trực tuyến vào BLHS năm 2015. Tăng cường đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp. Cạnh đó, cần nghiên cứu thành lập đơn vị chuyên trách về phòng, chống các hành vi xâm hại, bóc lột tình dục trẻ em trực tuyến; xây dựng, củng cố và tăng cường các cơ chế hợp tác “không chính thức” trong điều tra các tội phạm này.